TUYÊN NGÔN LẠC HỒNG
Nam quốc Mộc Tinh chấn Lạc Hồng
Vận thiên khí hội kiến hòa nhân
Chấn đạo quốc hưng bình thiên hạ
Ngoại quốc lân bang kính phục giao.
Trần Đông Chấn

Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát - La Meurtrissure

Search This Blog

Friday, May 20, 2011

Việt Gian Nguyễn Tất Thành làm đơn xin vào học trường Thuộc địa


Một ngày giáp Tết. Rét xuyên xương. Một cán bộ của Trung tâm Dịch vụ báo
chí của Bộ Ngoại giao đến gặp, đề nghị tôi tiếp ông J.Edward Milner, một
nhà báo, nhà đạo diễn và quay phim của Hãng ACACIA và Hãng Truyền hình
Channel Four Television của nước Anh. Vị cán bộ ngoại giao cho biết:
"Ông ta đang ấp ủ đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh".


Từ ngày bị thương nặng ở mặt trận trở về, tôi rất ngại ngùng khi phải
tiếp xúc với những người lạ vì đã bị mất nhiều thứ… mất cả cái ứng xử
nhạy bén, cái giao tiếp linh hoạt do cơ thể không còn lành lặn!


Nhưng đối với các vị khách nhà văn, nhà báo từ nước ngoài đến Việt
Nam tìm hiểu về đất nước, về con người, về Bác Hồ… tôi không thể từ chối
gặp được.


Ông J.E.Milner bước vào phòng với cái bắt tay trân trọng, lịch thiệp,
nhưng ông hơi ngỡ ngàng vì bàn tay tôi không còn nguyên vẹn và ông phải
vất vả xếp đôi chân dài của mình để ngồi bệt xuống cái chiếu dưới sàn
nhà! Ông cười với một cử chỉ bạt thiệp và giọng nói có màu ấm:


- Tôi đang tập ngồi kiểu này.

- Tính nhẫn nại của người phương Đông có từ trong cách ngồi. Ngồi kiểu này là vững chắc nhất, ngồi được lâu, thưa ngài.

Ông J.E.Milner ứng đáp rất nhà báo:

- Ngồi trên ghế có khi ngã vì ghế mọt.

Thế là chủ khách cùng cười, hội nhập. Tôi mời ông nâng chén:

- Ngài là khách từ một vương quốc rượu ngon, xin ngài nhấp với tôi ly rượu gạo của xứ sở nền văn minh lúa nước.

Ông J.E.Milner cạn chén:

- Tuổi thọ của rượu bằng tuổi thọ của loài người. Rượu cất bằng ngũ cốc là ngon, bằng gạo lại càng ngon, thưa ngài.

Qua những phút khởi đầu, ông J.E.Milner vào việc:

- Được biết ngài là một ký giả, một nhà văn đã viết nhiều sách và
nhiều bài về Chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhiều giới bạn đọc mến mộ. Hiện
nay có người nói rằng: Cụ Hồ lúc còn là chàng trai Nguyễn Tất Thành phải
đến cảng Nhà Rồng làm phu khuân vác, làm bồi tàu viễn dương để kiếm
sống… Gặp thế cuộc, Tất Thành mới tham gia hoạt động chính trị ở Paris
với tên gọi Nguyễn Ái Quốc nổi tiếng và trở thành lãnh tụ của phong trào
đấu tranh chống đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc. Ngài có luận
cứ gì khác để khẳng định Hồ Chí Minh – người yêu nước từ thời mang tên
Nguyễn Tất Thành?


Ông J.E.Milner nhìn tôi vẻ thăm dò… sau lúc nêu câu hỏi. Tôi vui vẻ:

- Thưa ngài, sách Khế ước xã hội của triết gia đại văn hào
J.J.Rousseau ra đời từ 1762. Ở nước chúng tôi gần đây mới dịch ra tiếng
Việt được trọn quyển (Dịch giả, nhà sử học Hoàng Thanh Đạm). Tôi rất
thấm thía một điều trong sách ấy: "…Những tâm hồn thấp kém không thể
hiểu thấu các bậc vĩ nhân, cũng như kẻ nô lệ nhe răng cười khi nghe hai
tiếng tự do". Có thể một ác ý của sự thiên kiến, cũng có thể do không có
được những cứ liệu chuẩn xác về quá trình hình thành của một nhân cách
mà hiểu sai lệch về nhân vật lịch sử… Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng
tôi là một nhà yêu nước từ thuở còn nằm trong bào thai của mẹ. Thật
vậy, mẫu thân của Người lúc gánh gạo đi tiếp tế cho nghĩa quân Phan Đình
Phùng chống giặc Pháp thì bụng bà đang mang thai, khi đứa bé ra đời
được mang tên "lót nôi" Nguyễn Sinh Côn thì được bú dòng sữa, được uống
lời ru của người mẹ yêu nước, căm thù giặc Pháp về đốt làng, giết người,
cướp của. Tuổi lên năm, lên mười, Nguyễn Sinh Côn đã được nghe cha đàm
đạo việc nước, việc nhà với các nhà đại cách mạng Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế… Ngày Nguyễn Tất Thành đang ngồi
trên ghế trường Quốc học Huế, là con quan Thừa biện Bộ lễ, Nguyễn Tất
Thành đã đứng vào hàng ngũ những người cùng khổ trong làng quê đấu tranh
đòi giảm thuế, bỏ sưu, chống đàn áp bóc lột (1908). Mật thám Trung Kỳ
truy nã, Nguyễn Tất Thành phải bỏ học trốn vào cực Nam Trung Kỳ. Một nhà
có bốn cha con thì cả bốn người đều bị ghi "sổ đen" của mật thám Trung
Kỳ: Nguyễn Sinh Sắc A. 3760; Nguyễn Thị Thanh A.1166; Nguyễn Tất Đạt
A.3781; Nguyễn Tất Thành A.3607.


Đó là "Những phần tử nguy hiểm cho nền cai trị của chính phủ bảo hộ".

Nói rằng Nguyễn Tất Thành không có công ăn việc làm… "phải đi làm phu
khuân vác". Thiết tưởng thân mẫu của Nguyễn Tất Thành là con một gia
thế. Cụ tú Hoàng Xuân Đường giàu chữ giàu của cải để nuôi con gái đèn
sách hơn mười năm, khi kết duyên với thân phụ của Nguyễn Tất Thành thì
bà mới nghỉ việc học. Thân phụ của Nguyễn Tất Thành được ông bà cụ Tú
nuôi ăn học từ nhỏ, thi đỗ cử nhân, gả con gái cho và nuôi tiếp chàng rể
ăn học, thi đỗ Phó bảng, phải ba lần cụ Tú bán ruộng cho chàng rể sắm
"lều chõng", lộ phí thi Hương trường Nghệ, thi hội tận kinh đô Huế. Rồi
thân phụ của Tất Thành làm quan Thừa biện Bộ lễ triều vua Thành Thái,
làm quan huyện Bình Khê triều vua Duy Tân. Thế thì, Nguyễn Tất Thành là
"cậu ấm", con quan, đang dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, tỉnh
Bình Thuận, thầy giáo Thành đang "ngồi cùng chiếu nhà giáo" với các bậc
thầy danh tiếng: Hồ Tá Bang, Trần Lê Chất, Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý
Anh, Nguyễn Hiệt Chi, Robert Hải, Ngô Văn Nhượng… Nguyễn Tất Thành đã
hoàn thiện một nhân cách thanh niên trí thức yêu nước cháy bỏng tâm hồn
trước thảm cảnh nước mất: Hai vua Hàm Nghi, Thành Thái bị đế quốc Pháp
bắt đi đày biệt xứ, hàng trăm ông nghè, ông cử, ông tú yêu nước bất
khuất bị giam chật nhà ngục Côn Lôn, cha làm quan huyện Bình Khê bị
triều đình Huế triệu hồi về kinh đô hạ ngục ngày 19/5/1910… Nguyễn Tất
Thành quyết dấn thân vào con đường "năm châu bốn bể" để tìm cho được cái
phương cách mà trở về giúp dân, cứu nước…


- Thưa ngài, trong cuốn sách "Hồ Chí Minh L'Indochine au Vietnam",
ông Daniel Mémery công bố một tờ đơn của Nguyễn Tất Thành gửi Tổng thống
nước Cộng hòa Pháp, xin được vào học trường Thuộc địa tại Paris, ngài
có suy nghĩ gì về lá đơn xin được học trường Thuộc địa của Nguyễn Tất
Thành?


- Cho tôi được hỏi ngài một chi tiết nhỏ.

- Xin mời ngài hỏi.

- Ngài có nhận xét gì về chữ viết, về trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Tất Thành qua lá đơn bằng Pháp ngữ ấy?

- Chữ viết tuyệt đẹp, lời chuẩn, diễn đạt mạch lạc, rõ ràng. Chứng tỏ sự học của Nguyễn Tất Thành chuyên cần và tài hoa.

- Như ngài thấy ở lá đơn của Nguyễn Tất Thành viết tại: "Marseille le
15 Septembre 1911″. Dấu triện đỏ hình bầu dục đóng trên lá đơn ngày "20
– Septembre 1911″. Vậy là Nguyễn Tất Thành rời cảng Nhà Rồng ngày
5/6/1911 với tên gọi Văn Ba (không phải là anh Ba) nghĩa là vượt qua
muôn trùng sóng cả để nghe và hiểu, mà biết… Lần đầu tiên Nguyễn Tất
Thành đến nước Pháp in bước chân ban đầu xuống thành phố Marseille. Từ
thành phố này, Thành làm đơn xin học trường Thuộc địa với một chủ đích
khác chứ không phải "đi du học". Nếu Thành học với lý tưởng ra làm công
chức, làm quan để có vợ đẹp, nhà lầu, xe hơi thì Nguyễn Tất Thành đã
chịu làm "tờ thú" với khâm sứ Trung Kỳ lúc anh tham gia cuộc đấu tranh
của nông dân Thừa Thiên – Huế 1908, sẽ được tiếp tục học và thi tốt
nghiệp năm sau đó. Thành biết rất rõ mục đích của trường Thuộc địa Paris
là đào tạo ra các ông quan cai trị cho các xứ thuộc địa, tiêu chuẩn
hàng đầu phải là con quan từ Nhị phẩm trở lên và trung thành tuyệt đối
với mẫu quốc Pháp mới được tuyển vào trường này. Thầy học của Thành là
cụ Lê Văn Miến, một trong ba người Việt Nam đầu tiên sang Paris học
trường Thuộc địa. Ông Hoàng Trọng Phu, ông Thân Trọng Huề học trường này
trở về làm quan rất to, riêng cụ Lê Văn Miến, học xong lại xin học tiếp
trường mỹ thuật Paris rồi về dạy học và vẽ tranh sơn dầu.


Nguyễn
Tất Thành làm đơn xin vào học trường Thuộc địa là một "thông báo" về
nước – Nguyễn Tất Thành con Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã có mặt tại nước
Pháp "mẫu quốc của dân An Nam!". Cho nên, bỏ vào thùng thư tại Marseille
đơn xin học trường Thuộc địa Paris, Nguyễn Tất Thành xuống tàu đi tiếp
đến Havre. Các bạn cùng chuyến với Thành tiếp tục phục vụ trên tàu quay
trở về Đông Dương… Thành ở lại Havre ít lâu rồi xuống tàu viễn dương
khác để "đi xem các nước" và anh đã xuyên qua các đại dương, ghé các bến
bờ: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Algéria, Tunisie, Libye, các cửa biển Đông
Phi, đến Cônggô, sang Anh quốc, sang Mỹ quốc, xuống Nam Mỹ, đến tận
Granđe de Ile de terre de feu, xuyên sang Port Elizabeth xuống Sydney,
Australia… Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành trở lại London và dừng chân
tại đây một thời gian lâu. Qua bao năm tháng ấy, Nguyễn Tất Thành chẳng
hề quan tâm đến cái đơn xin học trường Thuộc địa.


Ông J.E.Milner lại đặt tiếp một câu hỏi rất "kẹt" cho tôi:

- Chủ tịch Hồ Chí Minh được Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa
(UNESCO) của Liên hiệp quốc tôn vinh trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh
của Người: "Vị anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa kiệt
xuất (…heros de la libération nationale et éminent homme de culture…),
một biểu tượng kiệt xuất và quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội (…éminent symbole de I'affirmation nationnale, a
consacre toute sa vie à la libération nationale de peuple Vietnamien,
contribuant à la lutte commune des peuples pour la paix, I'indépendan
nationale, la démocratie et le progrès social…). Tại sao trong bản Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại có một điều tôi cảm nhận như "trái
ngược" với cái đức lớn của Người, đó là "…phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các
Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác"… Chẳng lẽ Hồ Chí Minh
quên đi gặp các vị anh hùng dân tộc tiền bối của mình?


- Tôi chân thành cảm tạ ngài đã cho tôi một lời thẩm luận rất có ý
nghĩa và lý thú. Với sự lãnh hội của tôi về vấn đề này thì, Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất nhuần nhuyễn học thuyết Đại Đồng trước khi tiếp nhận học
thuyết Mác – Lênin. Người thấy trong học thuyết của các vị Các Mác,
Lênin có những vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu… Mà lúc sinh thời Hồ
Chí Minh không gặp được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, cho nên
phải "đi gặp các cụ" ở thế giới bên kia. Còn các anh hùng dân tộc tiền
bối, Hồ Chí Minh không thấy có điều gì phải "chất vấn" nữa…


Nhà báo, nghệ sĩ điện ảnh J.E.Milner nâng chén rượu.

- Vậy là… có những "ẩn tích Hồ Chí Minh", phải đi tìm như Người đã
từng đi vào mọi cuộc đời trên khắp hành tinh của chúng ta… Chúng ta chúc
mừng Bác Hồ của bạn, và Bác Hồ của chúng ta – Người hằng sống.


Đặt chén xuống, ông nói giọng tha thiết:

- Tôi đã làm một bộ phim về Việt Nam và đã tặng Bộ Ngoại giao Việt
Nam trong chuyến thăm Việt Nam lần này. Bộ phim Việt Nam của tôi ra
không gặp thời điểm lịch sử, ít được hoan nghênh. Nhưng dòng chảy của
lịch sử không bao giờ dừng lại… Cho nên, tôi sẽ tiếp tục làm một bộ phim
về Hồ Chí Minh. Với tình đồng nghiệp, tôi xin bạn cho tôi được hỏi một
lời về nghề nghiệp: Là nhà văn, bạn tiếp nhận điều gì sáng nhất của tư
tưởng Hồ Chí Minh cho sáng tác của mình?


- Tôi luôn luôn nhớ lời của Người: "Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng
sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên
điều đó nhân dân cũng sẽ quên anh ta"…


Con chim cu gáy tự do trên giá sách mở tiếng gáy trưa đồng nội… Mười
một giờ. Gặp bữa cơm trưa của gia đình, theo tập tục của Việt Nam và nếp
nhà, vợ tôi thành tâm mời vị khách quý từ "viễn quốc" tới cùng ăn bữa
cơm đạm bạc với gia đình. Ông J.E.Milner cảm động và ngỡ ngàng giây lát:


- Thưa… bà! Tôi được một vinh hạnh bất ngờ! Đến Việt Nam nhiều lần,
lần này tôi mới gặp sự ước mong được ăn một bữa cơm gia đình người Việt
Nam. Tôi chân thành cảm tạ lòng hiếu khách của ông bà dành cho tôi.
Nhưng tôi lại chưa được cái may mắn hưởng bữa cơm gia đình của một nhà
văn Việt Nam. Bởi tôi đã có hẹn dự tiệc của một cơ quan mời 12 giờ hôm
nay. Chúng ta còn có dịp tái ngộ, tôi sẽ được như thành ngữ Việt Nam
"Cùng đồng bàn đồng bát" với ông bà… Vì tôi sẽ còn làm một bộ phim về
Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Chúng tôi chia tay ông J.E.Milner trong tiếng vang cu gáy mênh mang thành phố vào xuân!

Sơn Tùng

No comments:

Post a Comment

Vìdeo trực tiếp từ Paltalk: Diễn Đàn Chính Trị Tranh Luận Dân Chủ

Video#2 : DienDan ChinhTri TranhLuan DanCHu - Live from PalTalk

Log In Paltalk: DienDan_ChinhTri_TranhLuan_DanChu

Liberty