TUYÊN NGÔN LẠC HỒNG
Nam quốc Mộc Tinh chấn Lạc Hồng
Vận thiên khí hội kiến hòa nhân
Chấn đạo quốc hưng bình thiên hạ
Ngoại quốc lân bang kính phục giao.
Trần Đông Chấn

Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát - La Meurtrissure

Search This Blog

Thursday, May 10, 2012

TS Bùi Kiến Thành: “Chết rồi mới đem tiền đến viếng...”!

SGTT.VN - "Gói hỗ trợ 29.000 tỉ đồng tung ra với những giải pháp đi kèm không thực sự cứu vớt được doanh nghiệp. Không sản xuất thì không có việc làm, không việc làm thì không thu nhập, không thu nhập thì không có tiền mua sắm… Doanh nghiệp chết thì nền kinh tế cũng chết theo". TS Bùi Kiến Thành đã chia sẻ cùng Kienthuc.net.vn.

Doanh nghiệp đang giãy chết mới cần cứu

Theo đánh giá của ông thì gói giải pháp 29.000 tỉ đồng có giúp vực dậy được các doanh nghiệp?

TS Bùi Kiến Thành.

TS Bùi Kiến Thành: Hiện doanh nghiệp đứng trước tình trạng khó khăn: Không tiếp cận được nguồn vốn vay, lãi suất quá cao, hàng hóa đắp chiếu, máy móc ngừng hoạt động, công nhân thất nghiệp... Vấn đề là phải tạo điều kiện và môi trường cho doanh nghiệp phát triển vững vàng đi lên. Lúc này, chính sách tiền tệ phải đứng hàng đầu.

Gói giải pháp là cần thiết, nhưng cách làm cụ thể thì tôi không đồng tình. Ví dụ như cho phép doanh nghiệp được giãn thời gian nộp thuế VAT từ tháng 4 - 12 mới phải nộp. Thực sự điều này không giúp được nhiều cho doanh nghiệp. Cái doanh nghiệp cần là hàng tồn kho quá nhiều, phải có giải pháp tiêu thụ.

Về việc giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp thì sao thưa ông?

Bất hợp lý. Bao nhiêu doanh nghiệp làm ăn có lãi để mà nộp thuế? Doanh nghiệp đang giãy chết là bao nhiêu? Số doanh nghiệp xin giải thể tăng gấp mấy lần năm vừa rồi. Việc giảm 30% thuế không thể giúp các doanh nghiệp đang cần giải cứu. Doanh nghiệp còn có khả năng đóng thuế là họ đã làm ăn kha khá rồi, họ đâu cần giải cứu.

Vậy làm thế nào để giải cứu doanh nghiệp?

Nhà nước phải cần giúp họ ổn định sản xuất kinh doanh để phát triển. Gói cứu trợ có thể hiểu là mình đã bị tai nạn rồi, giờ mình mới đem ra để cứu chữa. Không nên để người ta bị bệnh rồi mới cho uống thuốc. Phải có giải pháp giúp họ không bệnh, khoẻ để làm việc và đóng thuế cho nhà nước. Để người ta chết rồi mới đem tiền đến viếng thì không hiệu quả.

Cứu doanh nghiệp: Không cần một xu!

Ý ông là gói giải pháp này chưa đưa ra được giải pháp hiệu quả?

Tổng thể các giải pháp ước khoảng 29.000 tỉ đồng. Nhưng nó chưa đưa ra được giải pháp căn cơ nhất. Nhưng theo tôi, Chính phủ không cần phải dùng một xu nào mà vẫn có thể cứu nền kinh tế. Ngược lại Ngân hàng nhà nước có thể thu được lợi nhuận về cho ngân sách.

Bằng cách nào thưa ông?

Ngân hàng nhà nước cho các ngân hàng thương mại vay với lãi suất 3 - 4% để các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vay với lãi suất 7 - 8%. Không dựa vào vốn huy động của hệ thống ngân hàng thương mại với lãi suất 15% như hiện nay. Chính phủ không tốn đồng xu nào mà ngân hàng trung ương còn thâu tóm được 3 - 4% lãi suất từ ngân hàng thương mại.

Nhưng Ngân hàng Nhà nước lấy đâu ra tiền để cho vay?

Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương để điều tiết lưu lượng tiền tệ cho nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, không gây ra lạm phát hay thiểu phát.

Cùng với trách nhiệm điều tiết lưu lượng tiền tệ cho nền kinh tế phát triển bền vững, ngân hàng trung ương có quyền phát hành giấy bạc, tiền tệ, tín dụng để đảm bảo lưu lượng tiền tệ cần thiết cho nền kinh tế phát triển. Thế nên, tiền ở trong tay ngân hàng trung ương.

Khi đó phải làm thế nào để không xảy ra lạm phát thưa ông? Hẳn là không thể thích in bao nhiêu tiền cũng được?

Một nhà máy chế biến cá tra tại Cụm công nghiệp Thốt Nốt (Cần Thơ) đã ngưng hoạt động từ năm 2011 đến nay. Ảnh: Tuổi Trẻ

Lạm phát là khi trong nền kinh tế có quá nhiều tiền lưu thông, nhiều phương tiện thanh toán chạy theo một số lượng hàng hóa có hạn.

Tăng trưởng tín dụng của ta hiện nay không được vượt quá 17% so với năm trước. Giảm vấn đề tăng tín dụng để hãm lưu lượng tiền tệ khỏi sinh ra lạm phát. 17% trong tổng lượng tín dụng của Việt Nam hiện nay khoảng 2 triệu 2 trăm ngàn tỷ đồng thì tính ra khoảng hơn 400 nghìn tỷ đồng.

Trong hạn mức 400 nghìn tỷ đồng này, Ngân hàng trung ương có thể dành 200 nghìn tỷ đồng cho các ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp vay để sản xuất kinh doanh. Còn ngân hàng thương mại vẫn được quyền huy động lãi suất trong dân đến 17% để cho vay lĩnh vực tiêu dùng có thể chấp nhận mức lãi suất cao. Với hạn mức đã định, khống chế tăng trưởng tín dụng, thì không thể lạm phát được.

Nhưng làm thế nào để kiểm soát đúng đối tượng được vay?

Phải cho vay đúng mục tiêu chứ không cho vay theo đối tượng. Vay tiền phải có dự án khả thi. Ngân hàng phải giám định từng dự án một để mà cho vay đúng theo mục tiêu của chương trình. Anh nào vi phạm thì phải chịu trách nhiệm về dân sự và hình sự. Việc đó không có gì là khó cả.

Theo ông thì những người đứa ra gói giải pháp có biết điều này không?

Có lẽ phải hỏi Ngân hàng Nhà nước.

Ông có bao giờ đề đạt ý kiến này của mình?

Tôi có nói, nhưng họ cho rằng điều kiện ở Việt Nam mình khác nên chưa thể áp dụng được. Có lẽ là những người có trách nhiệm không hiểu, hoặc hiểu nhưng không dám trình bày ý kiến của mình.

Một vế của nền kinh tế bị chết

Chỉ số giá tiêu dùng quý 1 năm nay được công bố gần như không tăng, ở mức 0,05%, tức là giá cả không tăng, nhưng vì sao không ai vui?

Hàng hóa không có ai mua thì giá cả nó đâu thể tăng được. Làm sao mà vui được. Xưa thấy cái ti vi mới đẹp là mua về để chơi, bán hoặc cho đi ti vi cũ. Nhưng giờ thì không. Từ cái nồi cơm điện đến cái quạt người ta cũng hạn chế mua. Các siêu thị điện máy ế ẩm...

Dường như khó khăn đã ảnh hưởng đến từng cá nhân trong xã hội?

 Đúng vậy, thay vì mua những thứ người ta thích thì người ta chỉ mua những thứ mình cần.

Từ trước đến giờ, đã khi nào xuất hiện những giai đoạn kinh tế khó khăn tương tự như hiện nay chưa thưa ông?

Có. Nhưng không nguy hiểm như bây giờ.

Vậy tình huống xấu nhất của thực trạng kinh tế này có thể là gì?

Tổng sản phẩm quốc nội sẽ thấp, kinh tế đình đốn, không có sản xuất...

Theo ông, khi nào chúng ta có thể hy vọng nhìn thấy một bức tranh kinh tế sáng sủa hơn?

Đến khi nào mà cái đà phá sản của doanh nghiệp được phanh lại, doanh nghiệp bắt đầu làm ăn được. Doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa, tạo ra việc làm, việc làm tạo ra thu nhập. Kinh tế là sản xuất và tiêu dùng chứ có gì đâu. Giờ anh sản xuất bị kẹt chết thì một vế của nền kinh tế bị chết.

Xin cảm ơn ông!

Năm 2009, Chính phủ cũng đã đưa ra gói cứu trợ 20 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ 4% lãi suất cho doanh nghiệp. Khi đó, lãi suất trên thị trường là 150% lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước (lãi suất cơ bản lúc đó là 8%). Nhà nước trả 4% đó cho ngân hàng giúp doanh nghiệp. Sau 2 năm thì tăng trưởng tín dụng lên đến hơn 60%, lạm phát bùng phát. Năm 2010 ta mới hoảng hồn về lạm phát, đến 2011 mới thực hiện kiềm chế lạm phát. Gói cứu trợ này ảnh hưởng đến nền kinh tế ở chỗ không cho vay theo dự án mà cho vay theo đối tượng. Người ta vay về mà không có nghĩa vụ phải dùng đồng tiền đó vào việc gì, mà nó là vốn lưu động nên họ làm gì cũng được. Một số công ty cho vay lại với lãi suất đến 15 - 16%. Thế nên nó mới tạo ra biết bao nhiêu dự án nhà mọc lên xây mọc lên nhan nhản rồi để đó.

Tô Hội ( Kiến Thức.Net )

Tuesday, May 8, 2012

DN chết không dám "bố cáo" vì sợ ngân hàng siết nợ

SGTT.VN - "Cứ với đà này thì doanh nghiệp (DN) chúng tôi không thể chịu đựng thêm được nữa" hoặc "Đáng buồn là nhiều DN đã "chết" cũng không dám công bố danh tính vì sợ ngân hàng phát mãi tài sản". Đó là những lời than từ các hiệp hội DN trong bối cảnh hiện nay.

Doanh nghiệ "chết", nhưng không dám công bố

Khó khăn lớn nhất của DN hiện nay là đầu ra và hàng tồn kho lớn (ảnh minh hoạ). Ảnh: L.M.K

Báo cáo của phòng Thương mại & công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại kỳ họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 cho thấy, tỷ lệ DN tạm ngừng sản xuất và giải thể trong năm 2011 và quý I/2012 chiếm 8,4% (trong đó ngừng sản xuất chiếm 4,3% và giải thể là 4,1%). Có một điều đáng lưu ý là trong khi tỷ lệ DN ngoài quốc doanh trong nước ngừng hoạt động hoặc giải thể chiếm tới trên 9,2%, thì khu vực FDI chỉ có gần 2,6%.

Cụ thể hơn, nêu lên thực trạng sức khỏe của DN vừa và nhỏ tại buổi tọa đàm "Đánh giá thực trạng hoạt động và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN", ông Nguyễn Hữu Cát, đại diện hiệp hội DN vừa và nhỏ cho biết, trong số hơn 600.000 DN nhỏ và vừa hiện nay chỉ có 36% DN hoạt động bình thường, 39% DN khó khăn và có tới 1/4 số DN đã phá sản, giải thể.

Là ngành hàng có số lượng hàng tồn kho lớn nhất hiện nay, ông Đỗ Đức Oanh, tổng thư ký hiệp hội Xi măng Việt Nam nêu thực trạng, hiện tại gần 100 DN của ngành xi măng đang rơi vào tình cảnh sản xuất cầm chừng, thậm chí đã có DN phải đóng cửa, dừng sản xuất do không có tiền chi trả chi phí sản xuất (nhân công, tiền điện, than…). Đơn cử, công ty xi măng Hạ Long (tập đoàn Sông Đà) sau 2 năm đi vào hoạt động đang lỗ khoảng 982 tỉ đồng, sản xuất cầm chừng từ đầu năm tới nay; còn công ty xi măng Đồng Bành thì hiện đã tạm ngừng sản xuất và đang "ôm" số lỗ khoảng 149 tỉ đồng sau 9 tháng đi vào hoạt động…

Bức tranh của "đại gia" trong ngành xi măng là tổng công ty Xi măng (Vicem) cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Ông Lê Văn Chung, chủ tịch hội đồng thành viên Vicem lo ngại, nếu năm 2008 DN đón nhận khủng hoảng với một tinh thần "hừng hực" vì được giảm thuế cùng cơ chế kích cầu lãi suất của Nhà nước, thì nay ngược lại.

"Nói là lãi suất giảm, nhưng thực tế chúng tôi đi vay vẫn phải chịu mức lãi vay 18%/năm. Cộng với chi phí đầu vào tăng cao, thị trường đầu ra cả trong nước và nước ngoài đều tắc, hàng tồn kho lớn… Cứ với đà này thì DN chúng tôi không thể chịu đựng thêm được nữa", ông Chung nói. Theo ông, hiện có những công ty thành viên đang xin về tổng công ty nhưng ông không dám nhận, vì "nhận về là hết hơi cả lượt".

Đáng buồn hơn, là có những DN đã "chết" nhưng không dám công bố phá sản, giải thể vì những lý do bất khả kháng. "Trong hiệp hội Thép ước tính có 10% DN mấp mé cái chết nhưng không dám công bố vì sợ ngân hàng sẽ siết tài sản. Ông Phạm Chí Cường, tổng thư ký hiệp hội Thép Việt Nam nêu lên bức tranh thực của ngành thép trong bối cảnh khó khăn hiện tại.

Theo ông Cường, trên thực tế, có những DN không còn sản xuất, không còn cả tiền duy trì bảo vệ bỏ mặc cho kẻ gian vào phá. Còn chuyện ngừng sản xuất 1 - 3 tháng, giảm sản xuất từ 3 ca xuống hai hoặc một ca là chuyện quá bình thường.

Hạ lãi suất, miễn, giãn thuế... vẫn chưa đủ "liều"

Nhìn nhận những biện pháp và nỗ lực từ phía cơ quan quản lý thời gian qua như giảm lãi suất, miễn, giản thuế… cho DN là tích cực, song ông Phạm Chí Cường cho rằng, "liều thuốc này chưa đủ mạnh" để cứu các DN vượt qua cơn bĩ cực lúc này. Còn nếu chỉ giảm, giãn thuế thôi thì vô ích, vì như thế chỉ có lợi cho những DN đang còn "sống", còn đối với những DN đã "chết" thì "còn gì nữa đâu mà đóng thuế".

"Khó khăn lớn nhất của DN hiện nay là đầu ra và hàng tồn kho lớn. Vì thế, việc giảm thuế VAT xuống 5% cho DN là rất cần thiết bởi nó sẽ ảnh hưởng ngay vào cơ cấu giá thành để sản phẩm có khả năng cạnh tranh, giảm giá bán nhằm tăng lượng tiêu thụ trong bối cảnh hàng tồn kho nhiều như hiện nay" – ông Cường lên tiếng.

Phó chủ tịch hiệp hội Bất động sản Việt Nam Nguyễn Văn Minh lại kiến nghị, các ngân hàng cần có chính sách hỗ trợ cho người tiêu dùng để kích cầu, giúp giải bài toán đầu ra cho DN.

Chia sẻ với các DN, ông Trần Bắc Hà, chủ tịch HĐQT NH Đầu tư & phát triển Việt Nam (BIDV) cho hay, ngay khi có chủ trương của NHNN nhà băng này đã hạ ngay lãi vay đối với một số lĩnh vực ưu tiên xuống 13,5%/năm, bất động sản xuống 16%/năm.

Tuy nhiên, trước những khó khăn đang bủa vây DN, ông Hà cũng cho rằng, cần có gói giải pháp tổng lực hơn. Cụ thể, Chính phủ cần tiếp tục tiếp tục giảm lãi suất tín dụng, bảo đảm tăng trưởng tín dụng hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho DN... Trong đó, cần có những gói cứu trợ cho từng nhóm hàng cụ thể, đặc biệt là những ngành hàng có ảnh hưởng lớn tới xã hội, nền kinh tế.

Theo ông Hà, nên miễn thuế thu nhập DN hoặc giãn có thời gian dài hơn cho DN. Đặc biệt, nếu đưa thuế xuất khẩu về 0% đối với một số ngành hàng sẽ giải phóng được lượng hàng tồn kho lớn, giải phóng vốn chứ không để găm hàng, lãi chồng lãi.

Thu Hoài ( infornet)

Hai nhà báo của VOV xác nhận bị hành hung tại Văn Giang

Sáng 24.4.2012, UBND H.Văn Giang (tỉnh Hưng Yên) đã huy động lực lượng thực hiện cưỡng chế thu hồi 5,8 ha đất của 166 hộ tại xã Xuân Quan.

 

Sau khi vụ việc kết thúc, trên một số trang mạng điện tử đã xuất hiện đoạn video được cho là ghi lại vụ cưỡng chế, trong đó có hình ảnh một số người dân bị lực lượng cưỡng chế (có công an mặc sắc phục) hành hung. Hai nhà báo Nguyễn Ngọc Năm (SN 1970), Trưởng phòng và Hán Phi Long (SN 1979), phóng viên Phòng Phóng viên thời sự, chính trị, kinh tế (Trung tâm tin, Đài tiếng nói Việt Nam - VOV) đã xác nhận với Thanh Niên, họ chính là hai người bị đánh trong đoạn video nói trên (ảnh).

Ông Nguyễn Ngọc Năm sau đó bị còng, đưa lên xe về trụ sở Viện KSND H.Văn Giang; còn ông Hán Phi Long thì tự đến Công an H.Văn Giang để tường trình sự việc.

Theo ông Năm, đến nay mặc dù hai phóng viên đã có đơn và VOV có công văn gửi đi nhưng tỉnh Hưng Yên vẫn chưa có động thái nào. Chiều qua PV Thanh Niên đã nhiều lần liên lạc với các lãnh đạo tỉnh Hưng Yên như Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Cường, Chủ tịch UBND Nguyễn Văn Thông, Chánh văn phòng UBND Bùi Huy Thanh nhưng không ai nghe máy. Giám đốc Công an Hưng Yên Trần Huy Ngạn từ chối cung cấp thông tin về vụ việc. Ông Nguyễn Xuân Hiếu - Chánh văn phòng công an tỉnh xác nhận đã nhận được công văn của VOV, tuy nhiên ông Hiếu cho biết vụ việc còn đang được xem xét.

Tr.Sơn

Lãi suất Việt Nam “khủng” nhất thế giới

Vinalines đã “nhấn chìm” bao nhiêu tiền?

Tổng công ty hàng hải VN (Vinalines) đã không làm tròn vai trò đầu tàu về vận chuyển hàng hóa, bởi đội tàu già, cũ mua từ nước ngoài về chủ yếu cho thuê, thậm chí phải bán tháo để giảm lỗ. Trong khi đó, Bộ GTVT dự kiến rót thêm 100.000 tỉ đồng.

 Vinalines đã phải bỏ ra hơn 1 triệu USD để giải quyết vụ việc tàu Vinalines Global bị Trung Quốc giữ
Vinalines đã phải bỏ ra hơn 1 triệu USD để giải quyết vụ việc tàu Vinalines Global bị Trung Quốc giữ
- Ảnh: Vinalines

Theo Quyết định 1366 của Thủ tướng Chính phủ ký năm 2006, Vinalines phải phối hợp với các bộ, ngành liên quan và các tập đoàn kinh tế lớn trong nước thực hiện tốt "kế hoạch vận chuyển hàng hóa xuất khẩu" đảm bảo lợi ích của đất nước. Tuy nhiên, theo cơ quan chức năng, dù việc khai thác đội tàu được thực hiện dưới hai hình thức là cho thuê định hạn và tự tổ chức vận chuyển, nhưng trên thực tế, trong giai đoạn 2005 - 2010, Vinalines chủ yếu cho thuê định hạn. Thậm chí có đơn vị cho thuê định hạn 100%. Trong tổng số 72 đơn vị thành viên của Vinalines chỉ có 1 đơn vị tự khai thác 100% là Vosco.

Tàu bị bắt, chủ bị kiện... và "vụ án ụ nổi"

Việc khai thác tàu bằng cho thuê định hạn có doanh thu không ổn định, hiệu quả khai thác thấp, mặt khác đã biến Vinalines từ đơn vị kinh doanh vận tải biển trở thành đơn vị kinh doanh "thuê mua tàu". Đã vậy, tàu của Vinalines còn liên tục bị giữ, bị phạt làm phát sinh chi phí rất lớn từ các khoản kiện tụng, hủy hợp đồng…

Đơn cử như tàu Vinalines Global, cho đối tác Ấn Độ thuê, nhưng đối tác này đã không trả tiền cước, dẫn tới chi nhánh Vinalines TP.HCM thông báo giữ hàng lại tàu. Tuy nhiên, chủ hàng đã khởi kiện Vinalines giữ hàng trái phép, dẫn tới tàu Vinalines Global đã bị Trung Quốc giữ, phải chi 800.000 USD tiền bồi thường, cộng thêm thiệt hại gần 240.000 USD chi phí phát sinh. Tháng 8.2010, vì Vinalines chưa thực hiện cho Công ty TNHH một thành viên vận tải tàu viễn dương Vinashin (Vinashinlines) vay 4,15 triệu USD để giải quyết vụ kiện với Công ty GMS Marine, dẫn tới tàu Cái Lân 4 và tàu Hoa Sen bị giữ tại Hàn Quốc, kết quả Vinalines phải đứng ra bảo lãnh cho Vinashinlines vay 5,56 triệu USD.

Trong giai đoạn năm 2007 - 2010, Vinalines đầu tư 14 dự án cảng biển và cảng sông, 3 cơ sở sửa chữa tàu biển và xây dựng kho bãi, nhưng kết quả không đạt kế hoạch đề ra. Tại một số dự án, các cơ quan chức năng đã phát hiện dấu hiệu lãng phí vốn, thậm chí có dấu hiệu làm trái quy định pháp luật.

Tháng 6.2007, Vinalines phê duyệt chủ trương xây dựng nhà máy sửa chữa tàu biển tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Trong đó có hạng mục mua, lắp đặt 1 ụ nổi cũ có sức nâng 25.000 tấn (đây là thành phần quan trọng trong một nhà máy sửa chữa tàu). Ban đầu, tổng mức đầu tư dự kiến cho ụ nổi này là hơn 14 triệu USD, bao gồm chi phí sửa chữa tại nước ngoài và chi phí vận chuyển về VN. Nhưng sau đó, Vinalines quyết định tự đưa về VN và giao cho Công ty sửa chữa tàu biển Vinalines sửa chữa. Tuy nhiên, giá đưa ụ nổi này về VN đã là 13,5 triệu USD, quá trình sửa chữa tiêu tốn thêm hàng trăm tỉ đồng. Chưa hết, ụ nổi này được xác định là đã qua sử dụng 43 năm, vượt 28 năm so với quy định. Giá mua và chi phí sửa chữa hai lần tại VN là 489,6 tỉ đồng (khoảng 26,3 triệu USD), tương đương 70% giá đóng ụ nổi mới.

Liên quan đến dự án này, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an đã vào cuộc và mới đây đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với một số người là lãnh đạo của Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines về hành vi tham ô tài sản.

Hàng loạt công ty con thua lỗ

Việc mua tàu cũ, đã quá đát, cùng với giá nhiên liệu và chi phí khác tăng cao, khiến nhiều công ty do Vinalines làm chủ sở hữu kinh doanh thua lỗ. Để đối phó với những khoản lỗ lớn ăn sâu vào vốn chủ sở hữu, vin vào lý do thanh lý tàu cũ để trẻ hóa đội tàu, các công ty này phải bán tàu để điều tiết lại doanh thu, lợi nhuận, nhưng thua lỗ vẫn hoàn thua lỗ.

 

Hoán đổi vị trí

Tháng 8.2005, ông Dương Chí Dũng được bổ nhiệm giữ chức Tổng giám đốc Vinalines. Cuối năm 2006, ông Dũng được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch HĐQT Vinalines. Nhưng đến đầu tháng 2.2012, ông Dũng thôi giữ chức Chủ tịch HĐTV Vinalines và được điều động sang giữ chức Cục trưởng Cục Hàng hải VN. Ông Nguyễn Ngọc Huệ, Cục trưởng Cục Hàng hải VN được điều chuyển về nhận chức Chủ tịch Vinalines.


Công ty cổ phần (CTCP) vận tải biển (Vinaship) đã bị Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) đưa vào diện cảnh báo từ ngày 3.5.2012. Kết quả kinh doanh trong quý 1/2012 tiếp tục bị âm 17,6 tỉ đồng. Vinaship sở hữu đội tàu 14 chiếc thì có 4 tàu trên 25 tuổi, trọng tải bình quân 14.800 DWT. Đơn cử như tàu Hà Đông do Hàn Quốc đóng từ năm 1986, trọng tải 6.700 DWT, đưa vào sử dụng 2000; tàu Hà Nam do Nhật Bản đóng từ 1985 trọng tải 6.700 và tàu Hà Tiên cũng do Nhật Bản đóng 6.500 DWT, có độ tuổi 33 năm. Do đội tàu già, tình trạng kỹ thuật kém, tốc độ không đảm bảo dẫn tới chi phí nhiên liệu tăng cao. Năm 2011, Vinaship đã bán thanh lý 3 chiếc.

Cũng trong hoàn cảnh tương tự, CTCP vận tải biển VN (Vosco) lỗ ròng trong quý 1/2012 60 tỉ đồng, trước đó, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh năm 2011 bị lỗ hơn 245 tỉ đồng. Khoản lỗ của Vosco thực tế sẽ còn cao hơn, nếu công ty không bán tàu Đại Việt trọng tải 37.432 DWT đóng năm 2005 tại Hàn Quốc cho một đối tác tại Singapore. Cũng trong 2011, công ty phải thanh lý tàu "cổ" Sông Tiền là loại tàu hàng khô có trọng tải 6.503 DWT đóng từ năm 1984.

CTCP hàng hải Đông Đô cũng bị lỗ liên tiếp trong nhiều năm từ hoạt động kinh doanh, năm 2009 khoảng 28 tỉ đồng, năm 2010 khoảng 87 tỉ đồng và 2011 hơn 16 tỉ đồng. Trước đó, công ty này đã chuyển nhượng một danh sách nhiều tài sản: Tàu chở hàng khô Đông Phong, 2 tàu container chuyên dụng Đông Mai/Đông Du, 2 nền đất ở khu trung tâm Hà Nội và Nha Trang...

CTCP vận tải và thuê tàu biển (Vitranschart), năm 2011 để "giải quyết những khó khăn cấp bách về tài chính" cũng đã phải bán tàu Phương Đông 1 và Phương Đông 3, tàu VTC Star. Tuy nhiên, công ty này vẫn đề xuất trong năm 2012 được bán tiếp tàu VTC Light và tàu Viễn Đông 3, là những tàu có giá trị còn lại và dư nợ ngân hàng thấp để giảm bớt khó khăn.

Rót thêm 100.000 tỉ đồng

Theo đề án Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành GTVT đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, Bộ GTVT dự kiến dành 100.000 tỉ đồng đầu tư đội tàu biển. Trong đó từ năm 2012 - 2015 là 30.000 tỉ đồng, đảm bảo tổng trọng tải tàu xấp xỉ 15 triệu tấn với các đội tàu vận tải quốc tế; tổ chức lại các tuyến vận tải và tiến tới làm chủ thị trường vận tải nội địa.

Tuy nhiên, theo ông Đỗ Xuân Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Chủ tàu VN, mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu các hãng tàu trong nước vận chuyển được 30% hàng hóa xuất nhập khẩu của VN, thì Bộ GTVT và các bộ ngành khác phải đưa ra được các giải pháp cho mục tiêu này, chứ không đơn thuần là việc đưa ra bao nhiêu tiền đầu tư mua tàu mới. Quan trọng chỉ cần ít công ty nhưng sống khỏe và sống mạnh ngay trên thị trường của mình. 

PGS-TS Nguyễn Văn Thụ - nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch và quản lý GTVT cũng cho rằng, đến hết năm 2011 tổng đội tàu biển của VN mới đạt trọng tải chưa đến 7 triệu tấn. Trong khi hầu hết hàng xuất nhập khẩu của VN do các hãng tàu biển nước ngoài đảm nhận, hãng tàu VN không cạnh tranh được. Theo ông Thụ, vấn đề không phải đầu tư thêm bao nhiêu tiền mà phải thấy chỗ yếu về tổ chức quản lý, năng lực khai thác của các hãng tàu để tập trung vào đó.

 

Mai Hà - Thái Sơn - Anh Vũ

Vìdeo trực tiếp từ Paltalk: Diễn Đàn Chính Trị Tranh Luận Dân Chủ

Video#2 : DienDan ChinhTri TranhLuan DanCHu - Live from PalTalk

Log In Paltalk: DienDan_ChinhTri_TranhLuan_DanChu

Liberty