TUYÊN NGÔN LẠC HỒNG
Nam quốc Mộc Tinh chấn Lạc Hồng
Vận thiên khí hội kiến hòa nhân
Chấn đạo quốc hưng bình thiên hạ
Ngoại quốc lân bang kính phục giao.
Trần Đông Chấn

Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát - La Meurtrissure

Search This Blog

Saturday, December 5, 2009

Thành phố Arles của Pháp vinh danh công lao những người lính thợ Việt Nam trong đệ nhị thế chiến

 Đức Tâm
Bài đăng ngày 04/12/2009 Cập nhật lần cuối ngày  04/12/2009 19:43 TU
Lính thợ Việt Nam trong các xưởng sản xuất đạn dược (DR)
Lính thợ Việt Nam trong các xưởng sản xuất đạn dược (DR)
Hôm qua, thành phố Arles đã tổ chức lễ vinh danh những người lính thợ Việt Nam, tiếng Pháp thời thực dân gợi là công nhân không chuyên ngành (Ouvriers Non Spécialisés - ONS) vì những đóng góp của họ trong thời kỳ thế chiến thứ hai, đặc biệt trong việc phát triển trồng lúa và làm muối tại vùng Camargue.
Hoàn cảnh của những người lính thợ Việt Nam trong thời đệ nhị thế chiến vẫn còn là một đề tài ít được biết đến. Một số báo đài bắt đầu quan tâm đến chủ đề này, trong đó có nhà báo Pierre Daum đã viết một cuốn sách tựa đề "Những người bị cưỡng bách nhập cư" nói về số phận của những người nông dân Việt Nam bị chính quyền thực dân bắt đưa sang Pháp phục vụ chiến tranh. Cuốn sách đang được dịch sang tiếng Việt.
Vào năm 1939, bộ Thuộc địa Pháp đã tuyển dụng cưỡng bức khoảng 20 ngàn người để đưa sang Pháp làm việc trong các nhà máy sản xuất vũ khí đạn dược, giống như thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ nhất. Là những nông dân ở Bắc Kỳ, An Nam (tức miền trung) và Nam Kỳ. họ được đưa lên tầu thủy, nằm ở khoang gầm tầu, sang Pháp, sau một chuyến hành trình dài mệt mỏi. Lúc mới sang, tất cả được dồn vào ở một nhà tù Baumettes, vừa mới xây, chưa sử dụng ở phía nam nước Pháp.
Cục diện chiến tranh thay đổi đột ngột vào tháng 6 năm 1940. Đường biển bị phỏng tỏa, khoảng 14 ngàn người buộc phải ở lại Pháp và bị đưa xuống nhiều địa phương ở phía nam. Công việc chính của họ là rửa nước mặn cho đồng ruộng và phát triển trồng lúa để có lương thực sinh sống.
Theo nhà báo Pierre Daum, trước đây, lúa đã mọc tại vùng Camargue, ở miền nam, nhưng nhờ có những người lao động nhập cư Đông Dương tới vùng này năm 1941 mà ở đây trồng được loại lúa thóc con người ăn được. Từ năm 1942, các vụ lúa tại vùng Camargue bội thu và cho đến tận những năm 60 của thế kỷ trước, nhiều người trong số họ đã làm giầu nhờ nghề trồng lúa. 
Trong suốt thời gian làm việc tại Pháp, những người lính thợ Việt Nam chỉ nhận được mức lương bằng một phần 10 lương công nhân Pháp và sau này, không ai trong số họ được nhận tiền trợ cấp nghỉ hưu, khi về già.

Một tỉnh có 50 thủy điện: ghê quá!

Thứ Bảy, 05/12/2009, 07:38 (GMT+7)

TT - Hôm 4-12, Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức hội nghị chuyên đề phát triển thủy điện. Nhiều đại biểu cho rằng thủy điện trên địa bàn đã phá rừng, không cắt lũ hạ du khiến dân giờ cứ nghe báo lũ là bỏ chạy.



Đô thị cổ Hội An nằm cuối nguồn sông Thu Bồn. Cơn lũ lịch sử vừa qua phá hỏng đường ven biển Cửa Đại - Ảnh: V.Hùng
Mở đầu hội nghị, ông Mai Anh Súy, phó chủ tịch UBND huyện Đại Lộc, phản ứng gay gắt việc thủy điện A Vương xả lũ khiến cả huyện bị ngập nặng nề nhất trong 100 năm qua. Ông nói lúc đang mưa bão, lũ lên báo động 3, dân tình hoang mang. Đùng một cái thủy điện A Vương xả hơn 100 triệu m3 nước trong vài giờ lúc đêm khuya. Hàng vạn hộ dân trở tay không kịp, mất mát rất lớn. Ông Súy xót xa: “Lũ đã lớn còn xả nước thủy điện, lại chồng thêm lũ “nhân tạo” thì thiếu trách nhiệm quá. Tôi cho rằng họ tích nước để phục vụ việc phát điện hơn là cắt lũ, đỡ cho dân vùng hạ du”. Ông nói thêm giờ người ta vẫn còn kinh hoàng khi mới đây diễn tập phòng chống lũ, bà con đang tụ tập buôn bán ở chợ bỏ chạy tán loạn.
Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Đức Hải cho rằng việc gây ra lũ lụt lớn vừa qua có phải do thủy điện hay không cần nhìn nhận khách quan, thận trọng. Song ông khẳng định thủy điện A Vương và Sông Côn chưa tính toán mức lũ, vận hành hồ chứa, xả lũ không đúng thời gian thích hợp nên gây ngập lụt nặng ở Đại Lộc, Điện Bàn, Hội An. Ông bức xúc cho rằng đây không còn là chuyện nhạy cảm nữa mà cần nhìn thẳng sự thật, các nhà máy thủy điện xả lũ không tính đến vùng hạ du đã làm dân bị thiệt hại nặng nề là thật, lũ dữ hơn là thật.
Là địa phương “gánh” trên lưng số lượng thủy điện nhiều nhất tại Quảng Nam, bí thư huyện Đông Giang Phạm Bằng cho biết cần xem xét lại quy hoạch thủy điện bởi người dân địa phương đang lo sợ trước thảm họa như lũ bất thường, công trình hồ chứa mất an toàn, nguy hiểm khôn lường không khác động đất. Ông Bằng nói: “Thủy điện nói vô can với lũ lụt, chính quyền nói có yếu tố thủy điện, làm chính quyền huyện và người dân không thông. Vấn đề này sao không lập đoàn công tác để điều tra làm rõ”.
Lũ dữ hơn

Thu 800 tỉ đồng/năm
Dự kiến năm 2015 khi 50 nhà máy thủy điện đi vào hoạt động sẽ tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách của tỉnh Quảng Nam hằng năm khoảng 800 tỉ đồng. Trong lúc đó chỉ tính trong cơn bão lũ số 9 vừa qua, Quảng Nam bị thiệt hại giá trị hơn 4.000 tỉ đồng, trong đó riêng huyện Đại Lộc là 650 tỉ đồng.
Tại hội nghị, nhiều chuyên gia về thủy điện đã chỉ rõ những thiếu sót và bất cập trong công tác quy hoạch thủy điện thời gian qua, không những ở miền Trung mà trong cả nước.
Ông Lê Hữu Thuần - phó cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước của Bộ Tài nguyên và môi trường - cho biết hầu hết thủy điện khi quy hoạch đều chưa có đánh giá tác động môi trường chiến lược theo luật định. Ông chỉ ra nhiều khiếm khuyết khác của hồ thủy điện như các quy trình vận hành hồ chứa khi xảy ra sự cố nghiêm trọng chưa có, chưa có yêu cầu phòng và chống lũ. Ngoài ra không có các hệ thống giám sát và đo đạc sử dụng nước.
Ông Trần Quang Hoài - phó cục trưởng Cục Quản lý đê điều và phòng chống lụt bão - nói qua hai cơn bão lũ số 9, 11 đã bộc lộ một số nhà máy thủy điện chưa quan tâm đến vấn đề cắt lũ hạ du. Hầu hết chủ đầu tư năng lực còn hạn chế, thiếu trách nhiệm quản lý, muốn giảm giá thành đầu tư nên không đầu tư hết các nhiệm vụ của hồ đập.
Ông Lê Trí Tập - nguyên chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam - khẳng định bên cạnh việc mất đất, mất rừng thì thủy điện góp phần làm lũ lụt ngày một dữ hơn, người dân hạ du sống trong phập phồng. “Ai phát biểu trên báo chí là làm thủy điện mà không mất đất, mất rừng thì chỉ có lên trời mà làm thủy điện” - ông Tập bức xúc. Một kilômet đường làm thủy điện mất 3-5ha, một MW điện mất đứt 7-10ha rừng. Ông than cả tỉnh có 50-60 thủy điện thì ghê gớm quá, phải xem xét lại trên quan điểm hi sinh lợi ích trước mắt để được lâu dài, tương lai con cháu ta.
Điều chỉnh quy hoạch
Trước đó, phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Đinh Văn Thu cho rằng việc đầu tư các nhà máy thủy điện trên địa bàn góp phần đáng kể khắc phục tình trạng thiếu hụt điện, không tiêu thụ nhiên liệu nên không có chất thải độc hại. Ông Thu chỉ ra bất cập về quy trình vận hành hồ chứa thủy điện A Vương trong cơn bão lũ số 9 vừa qua. Dung tích phòng lũ của hồ chứa quá nhỏ nên tác dụng cắt lũ, làm chậm lũ cho vùng hạ du rất thấp.
Ông Thu cam kết tiếp tục rà soát để điều chỉnh quy hoạch các dự án thủy điện và kiên quyết không triển khai dự án có ảnh hưởng lớn đến di dời dân, đất rừng, đất sản xuất. Chấm dứt đầu tư các chủ dự án không đủ năng lực, thu hồi dự án chậm tiến độ triển khai. Tỉnh yêu cầu chủ đầu tư có trách nhiệm trồng lại diện tích rừng mà dự án đã chiếm đất. Đưa ra các giải pháp giảm thiểu thiệt hại đến môi sinh, môi trường, sản xuất và đời sống nhân dân.
Ông nhấn mạnh các bộ ngành trung ương cần phải điều chỉnh lại quy trình vận hành hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích nước chống lũ. Bảo đảm dòng chảy tối thiểu để phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước. Xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa thủy điện bảo đảm nguồn nước cho hạ du về mùa nắng và tham gia điều tiết lũ. Trước mắt khẩn trương thực hiện đối với thủy điện A Vương.
VIỆT HÙNG - TẤN VŨ

Hơn 200 công nhân may đình công ở Hà Nội


Ngày 4/12, hơn 200 công nhân Công ty cổ phần vải sợi may mặc miền Bắc (79 Lạc Trung, Hai Bà Trưng, Hà Nội) đã đồng loạt nghỉ việc và tập trung trước cổng công ty yêu cầu được tăng lương.
Trao đổi với VnExpress.net, chị Trịnh Thị Thủy, đại diện tập thể công nhân cho biết, nhiều năm nay công nhân thường xuyên phải làm việc từ 7h30 sáng đến 19h tối, buổi trưa chỉ được nghỉ 30 phút. Tiền làm thêm giờ chỉ được hưởng 2.000 đồng mỗi ngày.
"Từ ngày 11/11, do công ty nói có lô hàng vội, yêu cầu làm đến 19h30, chúng tôi đã cố gắng hoàn thành kế hoạch. Nhưng mức khoán sản phẩm ngày càng tăng, làm đủ định mức mới được thưởng 15.000 đồng mỗi ngày, không đủ đảm bảo sức khỏe. Chúng tôi đã nhiều lần đề nghị công ty xem xét, nhưng không được giải quyết", chị Thủy kể.

Công nhân phản ánh bị vắt sức lao động. Ảnh: Hồng Khánh.
Theo công nhân, lương khoán sản phẩm của công ty quá thấp, trung bình lương mỗi tháng thợ có tay nghề chỉ được 1-1,2 triệu đồng. Nếu đảm bảo mức khoán, công nhân mới được hưởng 88% lương, còn 12% công ty giữ lại nói là quỹ thưởng. Từ tháng 12, công ty quy định nếu không làm đủ sản phẩm sẽ cắt khoản thưởng này.
"Nhưng để làm đủ sản phẩm thì chúng tôi bị vắt kiệt sức lao động vì mức khoán hôm sau cao hơn hôm trước. Nhiều người đã làm thêm giờ, nhưng vẫn không đủ định mức khoán. Nhiều bạn trẻ thấy làm việc quá vất vả, lương thấp đã xin nghỉ. Còn tôi đã 17 năm làm việc, đóng bảo hiểm xã hội, bỏ đi cũng dở mà ở cũng không xong", chị Lê Thị Mai phân xưởng may 1, cho biết.
Công nhân cũng phản ánh năm 2008, họ không được hưởng tiền nghỉ lễ. Tiền thưởng Tết của người làm việc tốt, đảm bảo đủ định mức chỉ 720.000 đồng. Vì quá bức xúc, từ 18h tối qua đến sáng nay, hơn 200 công nhân của 2 phân xưởng may và một phân xưởng cắt đã đồng loạt nghỉ làm, tập trung trước công ty đề nghị lãnh đạo giải quyết chế độ nghỉ lễ, giảm giờ làm, nếu làm thêm giờ (ngoài 8 tiếng quy định) thì phải trả mức lương cao hơn.
13h chiều 4/12, lãnh đạo công ty đã làm việc với đại diện công nhân. Ông Đinh Văn Tòng, Chủ tịch công đoàn kiêm Phó tổng giám đốc công ty, cho VnExpress.net biết: "Tổng giám đốc Nguyễn Như Lâm đã giải quyết hợp tình, như đã thừa nhận ngưỡng khoán là chưa hợp lý, sẽ nghiên cứu lại. Về tiền Tết, ngày nghỉ lễ, ông Lâm hứa sẽ giao cho bộ phận chuyên môn kiểm tra và thực hiện theo đúng luật lao động. Những thắc mắc chưa trả lời được, ông hứa sẽ trả lời văn bản vào tuần sau".
Tuy nhiên, chị Nguyễn Thị Thu Nguyệt, đại diện công nhân tổ 1, phân xưởng may 4, người có mặt trong cuộc họp chiều nay, cho biết Tổng giám đốc yêu cầu lao động làm việc tiếp, song lại không giải quyết những bức xúc. "Vẫn chỉ là sẽ xem xét, cân nhắc và hứa trả lời bằng văn bản vào tuần sau. Vì vậy, chúng tôi sẽ tiếp tục đình công".
Hồng Khánh

Thác Bản Giốc - báu vật muôn đời - Kỳ 1: Cột mốc 836

Thứ Bảy, 05/12/2009, 01:01 (GMT+7)
TT - Vượt gần 300km từ Hà Nội lên thị xã Cao Bằng, thêm gần 100km nữa để vào huyện lỵ Trùng Khánh và ngược về xã Đàm Thủy, thác Bản Giốc hiện ra ngỡ ngàng trong vẻ đẹp nguyên sơ và trinh bạch giữa núi rừng Việt Bắc.
Thác Bản Giốc, hơn cả một địa danh, hơn cả một thắng cảnh, cái tên ấy đau đáu một phần máu thịt người Việt với bao tháng năm dâu bể cùng nắng mưa miền biên ải...

Du khách ngắm thác Bản Giốc - Ảnh: Việt Dũng

Cả một dải biên cương phía Bắc dài hơn 1.400km núi phủ mây phong, tấc đất nào không nhuốm mồ hôi xương máu tiền nhân? Có dòng suối, con sông, tên núi, tên làng... nào lại không vang lên lay động cõi lòng người Việt? Nhưng Bản Giốc lại khác, đó là nơi có một dòng thác đẹp vào hàng đệ nhất danh thác của Việt Nam.
Cảm xúc Bản Giốc

Ngày 14-1-2009, cột mốc cuối cùng được cắm trên địa phận biên giới tỉnh Cao Bằng tiếp giáp với Trung Quốc chính là cột mốc ở thác Bản Giốc - cột mốc 836 (2).
Ngay thời điểm đó Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã có bài viết “Việt -Trung xem xét hợp tác du lịch ở thác Bản Giốc”, nhấn mạnh hai bên (Việt Nam và Trung Quốc) sẽ ký một thỏa thuận cấp chính phủ về vấn đề hợp tác khai thác tiềm năng du lịch tại đây.
“Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân”. Có lẽ điều đúc kết của cổ nhân cũng vận vào thác Bản Giốc này khi đã có bao thăng trầm dâu bể bởi nhan sắc kiều mị của chính mình. Khó có thể kể hết tâm lực và cả máu xương mà người lính biên phòng và nhân dân miền non nước Cao Bằng đã đổ ra để bảo vệ và gìn giữ tặng vật mà thiên nhiên ban cho miền đất này. Và những câu chuyện ấy, có khi rất nhiều năm sau nữa thế hệ con cháu mới bình thản ngồi nghe kể lại...
Thác Bản Giốc, từ năm 1922 đã được miêu tả trong tư liệu của Sở Địa chất Đông Dương thế này: “... Đây là một vùng đẹp nhất của Tonkin (tức miền Bắc), nếu không vì xa xôi và phương tiện lưu thông khó khăn nó rất xứng đáng để du khách đến thăm viếng với những hang động, những cây cầu chữ Z bắc lên những tảng đá băng qua sông, và nhất là cái thác hùng vĩ, gọi là thác bậc thềm có tên Tu Tong (Tụ Tổng) được người châu Âu biết đến nhiều qua tên thác Bản Giốc”. (Bulletin du service géologique de l’Indochine - 1922, trang 34).
Giờ đây, đối diện với dòng thác đang tung bọt ngang trời kia, một cảm xúc rất lạ chợt dâng lên nghẹn cứng lồng ngực chúng tôi. Ấy chính là xúc cảm chủ quyền, là cảm thức đất mẹ, cái cảm thức vừa thiêng liêng như tình mẫu tử, vừa đau đáu nỗi dấu yêu với tấc núi tấc sông trong di huấn tiền nhân!
Cột mốc 836 đã cắm cả hai phía thác, bên phía Việt Nam là mốc 836 (2), bên đất Trung Quốc là mốc 836 (1). Đường biên giới đã phân định đi từ cột mốc 835 trên cồn Pò Thoong chạy xuống điểm giữa của mặt thác chính, rồi chạy dọc theo dòng chảy sâu nhất của sông Quây Sơn. Phía Việt Nam sở hữu phần thác phụ và một nửa thác chính, phía Trung Quốc sở hữu một nửa thác chính phía bờ bắc sông Quây Sơn. Cả mặt sông phía chân thác thành khu vực khai thác du lịch chung, khách từ Việt Nam hay từ Trung Quốc đều có thể lên bè, lênh đênh trên dòng Quây Sơn để ngắm thác từ nhiều góc độ.
Từ tỉnh lộ 206 đi vào phía Hạ Lang, thác Bản Giốc hiện ra trước mắt chúng tôi. Không may mắn gặp ngày nắng để nhìn cầu vồng bảy sắc hắt lên từ bụi nước của thác, nhưng sắc trời âm âm của biên cương chiều mưa với những áng mây sà thấp và bụi nước mờ mờ ngang triền núi đá, người thưởng ngoạn sẽ có cảm giác như dòng nước bạc từ trên độ cao hơn 50m rạch ngang mây trời, buông mình xuống với trần gian...

Cột mốc 836 (2) phía VN - Ảnh: GIA TIẾN
Cột mốc bên triền thác
Sau cuộc làm việc với trung tá Luân Ngọc Cầu, đồn trưởng đồn biên phòng Đàm Thủy, chúng tôi theo chân đại úy Đinh Tiến Hóa, trưởng trạm biên phòng Bản Giốc, vào nơi trạm đứng chân.
Một thanh chắn của Công ty cổ phần Du lịch Cao Bằng dựng lên chênh chếch phía trước cổng trạm biên phòng ngay lối xuống thác để thu vé của du khách. Giá vé tham quan thác Bản Giốc chỉ 15.000 đồng/người lớn. Đối diện với thanh chắn là một tấm panô lớn với bản đồ quy hoạch chi tiết khu du lịch thác Bản Giốc được ghi nổi bật hàng chữ: “Quy hoạch tổng thể phát triển khu du lịch thác Bản Giốc - theo quyết định 134/QĐ TTg của Thủ tướng Chính phủ”. Số tiền dự kiến đầu tư từ đây đến năm 2020 lên tới 2.400 tỉ đồng.
Trên chiếc mảng của những người dân Bản Giốc làm du lịch, chúng tôi được đưa ra giữa dòng Quây Sơn, neo mảng thật lâu nơi chân thác để nghe bọt nước se lạnh thấm qua lòng mình những yêu thương với miền đất địa đầu biên ải.
Quanh chúng tôi là những chiếc mảng của khách du lịch Trung Quốc cũng đầy khách tham quan thác. Nước vẫn trôi như không có lằn ranh biên giới, mây vẫn vắt ngang những đỉnh núi trầm tư như chưa hề biết chuyện những tháng ngày đấu trí, đấu lực để gìn giữ giang sơn. Cột mốc nơi chân thác này sẽ là một chứng nhân lịch sử kể lại cho muôn đời sau...
Chàng trai chèo mảng chở chúng tôi tên Phương Đình Hoàn, dân tộc Tày, vốn là cư dân Bản Giốc trên sông Quây Sơn, Hoàn nói: “Từ thủa cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi mới thấy một cột mốc được xây dựng công phu như vậy”. Thật tình cờ, Hoàn sinh năm 1979. Ký ức tuổi thơ của Hoàn còn đọng lại hình ảnh những bãi bom mìn rải đầy khu vực thác, người dân chẳng dám lại qua, trâu bò lỡ lạc bước vào tạo nên những tiếng nổ át cả tiếng thác reo. Hoàn cũng có nhiều ngày tháng chứng kiến những vất vả của người lính biên phòng nơi đây trước khi diễn ra sự kiện trọng đại cắm mốc 836 (2).
Không chỉ có Hoàn say sưa và tự hào về Bản Giốc, mà từ lâu rồi nơi này đã trở thành tâm điểm để những trái tim người Việt từ năm châu bốn bể đau đáu vọng về.
Ngồi một lát ở phòng khách của trạm biên phòng Bản Giốc, chúng tôi đã cảm nhận được tình cảm từ khắp mọi miền đất nước dành cho những người lính biên phòng nơi đây: chiếc đồng hồ treo tường do đảng ủy Bộ Ngoại giao tặng, hai anh chiến sĩ biên phòng đang cắm cúi bên chiếc máy tính xách tay - quà của Hội Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên mang lên, chiếc tivi và đầu VCD là quà của thanh niên thủ đô, những hàng cây cảnh xanh mướt ngoài sân cũng từ các địa phương dưới xuôi vượt đường xa lên tạo dáng cùng cây rừng...
Và một vinh dự nữa mà không phải trạm kiểm soát biên phòng nào cũng có được: hầu như lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội đều đã đến đây!
LÊ ĐỨC DỤC - VÕ VĂN THÀNH
-------------------------------------------------
Dựng cột mốc bằng đá hoa cương đã rất khó, nhưng dựng cột mốc trong lòng dân mới là thách thức trường tồn của những người lính biên phòng nơi miền biên viễn...
Kỳ tới: Yên dân, phên dậu muôn đời...

THÔNG BÁO: Hệ Thống Blog Muliply Sẽ Ngưng Hoạt Động Ngắn Hạn Để Update Vào Cuối Tuần Này



Dec 4, '09 8:43 PM
Hệ Thống Blog Multiply sẽ update và dời server về TP Miami, Florida, Hoa Kỳ. Vào chiều thứ 7 tuần này bên Mỹ, tức rạng sáng chúa nhật, ngày 06/12/2009, mọi người vào blog của mình ở Multi sẽ không được. Không biết thời gian sẽ bao lâu, nhưng công việc update nghe nói đâu ít nhất là 1 tuần? Thông báo bà con được rõ.

-----------------------------------

Much of the work in prepping for our datacenter move has been done, and we are targeting tomorrow afternoon US/Eastern time (Saturday December 5th) to start migrating customer data to the new facility in Miami.

(For those who are curious, Saturday afternoon is our lowest-traffic time of the week)

This means that for a short period of time the site will be unavailable for maintenance, and accounts will come back on-line as soon as they are moved.  We are working hard to make the transition as smooth as possible, and to minimize any downtime or disruptions.

Once this phase is complete, there will be one more maintenance window that will be required to complete the move, which will happen approximately 10 days from now.  At that point, the move will be complete and we'll be up and running in our new facility, with faster hardware than ever.

DUNG QUẤT: 15 năm khơi dòng năng lượng Việt

SÀI GÒN TIẾP THỊ TẾT 2009 - ngày 26.01.2009  

Theo kế hoạch, đến ngày 25.2.2009 này, những dòng dầu đầu tiên mang nhãn "Made in Dung Quat - Vietnam" sẽ được xuất xưởng tại nhà máy lọc dầu Dung Quất, khép lại một chặng đường 15 năm thực thi dự án có nhiều ý kiến khác nhau…

Nhưng có lẽ những con số sau đây được ông P.K.Sing, đại diện cho tập đoàn Technip, nhà thầu chính cho biết mới là "kỷ lục". Là bởi, nhà máy này rộng đến 200 hecta, bằng 200 sân bóng đá, hơn 100.000 tấn vật tư, tương đương với 10.000 chiếc xe buýt cỡ lớn, trên 5 triệu mét dây cáp điện, đủ căng từ Hà Nội đến Sài Gòn và ngược lại, gần 17.000 tấn thép, đủ để xây hai tháp Eiffel của Pháp ở Paris! Là người thường xuyên ra vô nhà máy nhưng mỗi lần đến là một lần mới lạ với tôi. Nhưng lạ nhất vẫn là những chuyện sau đây.

Made in Dung Quat - Vietnam

Cuối tháng 11.2008, chiếc tàu chở 80.000 tấn dầu thô từ mỏ Bạch Hổ, thay vì chạy ra nước ngoài để bán như mọi khi, nay chở thẳng về vịnh Việt Thanh để bơm vào các bể chứa của nhà máy. Người dân Dung Quất đi coi tàu chở dầu còn hơn đi xem cá voi trôi dạt vào bờ!

Một số người còn chưa hiểu vì sao lúc đầu số tiền xây nhà máy có 1,5 tỉ USD, rồi hạ xuống còn 1,3 tỉ USD khi liên doanh với Nga, rồi lại tăng lên 2,5 tỉ USD khi Việt Nam tự làm. Sự "tăng – hạ – tăng" ấy đã khiến các cuộc thảo luận trong hội trường qua mỗi kỳ họp Quốc hội cũng "nóng – lạnh" theo. Mình làm với Nga thì chỉ ra xăng A83, dầu ma-zut, những thứ mà cả thế giới đều ớn, giờ để có xăng A90, A92, A93, ắt phải lắp thêm hai phân xưởng nữa, tiền đội lên. Giờ có thêm nhà máy sản xuất hạt nhựa – một sản phẩm khác của lọc dầu nên giá đội lên. Nhưng để "quyết" 2,5 tỉ USD, tăng một tỉ so với ban đầu và chịu trách nhiệm trước Quốc hội và toàn dân là một hành động dũng cảm của Chính phủ. Một chút "rụt rè" lúc ấy thôi, nay có 3,5 tỉ USD cũng xây không được nhà máy như thế này. Chuyện "lạ" này chỉ có những người trong cuộc mới "quen" được mà thôi. Cũng như việc nhà máy chưa ra sản phẩm nhưng ngành dầu khí cũng đã quyết định mở rộng từ 6,5 triệu tấn lên 10 triệu tấn/năm để có thể đáp ứng được 30% nhu cầu của thị trường trong nước vào những năm 2010 –2015.

Ông Trương Văn Tuyến, đương nhiệm trưởng ban quản lý nhà máy lọc dầu, vị giám đốc thứ bảy, người đang giữ vai trò khép lại một trang lịch sử ngành dầu khí tại Dung Quất, nói: "Không có cái tâm thì không thể làm được nhà máy này đâu". Câu nói thoạt nghe rất "sáo" nhưng "ốp" vào đời ông thì không sai tí nào. Sáu vị giám đốc trước đó, kẻ về Nga, ông về hưu, người bị kỷ luật, chỉ có Trương Văn Tuyến là "đậu" lại cho đến ngày thấy dầu. Tết này là tết thứ ba, ông đón tết với anh em công nhân ngay tại công trường chứ không về Hà Nội đón giao thừa với gia đình. Đó là một sự hy sinh, dù nhỏ, nhưng đáng trân trọng. Và trân trọng hơn khi ông nói rằng: "Dầu được làm từ Dung Quất nhưng rất nhiều người ở vùng quê ấy, nghèo hơn chúng ta tưởng. Nghèo trên đống bạc như thế, đau đớn lắm! Vì không phải ai ở Dung Quất cũng được hưởng lợi trực tiếp từ cái dự án khổng lồ này".

Phạm Đương

Friday, December 4, 2009

Thứ Ba, 29/09/2009, 09:27


Hải Phòng : Một Thành ủy viên tố việc 'chạy' chức
TP - Ông Phạm Văn Huấn tố cáo việc ông Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám đốc Cty Cổ phần Thép Việt Nhật HPS, đến tận cơ quan ông Huấn đưa một chiếc phong bì và gợi ý để ông Huấn bỏ phiếu bầu cho một quan chức ở Hải Phòng vào chức danh chủ tịch UBND TP Hải Phòng sắp tới.
Sáng qua, ông Phạm Văn Huấn, Thành ủy viên, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã TP Hải Phòng xác nhận với phóng viên Tiền Phong, vụ việc ông tố cáo và nộp lại hai mươi triệu đồng đang được Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hải Phòng làm rõ.
Chiều 22/9, tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ TP Hải Phòng, ông Phạm Văn Huấn khiến tất cả đại biểu bị sốc khi bất ngờ tố cáo việc ông Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám đốc Cty Cổ phần Thép Việt Nhật HPS (trụ sở ở phường Quán Toan, Hồng Bàng - Hải Phòng) đến tận cơ quan ông Huấn đưa một chiếc phong bì, bên trong có 20 triệu đồng và gợi ý để ông Huấn bỏ phiếu bầu cho một quan chức ở Hải Phòng vào chức danh chủ tịch UBND TP Hải Phòng sắp tới.
Ngay sau lời tố cáo của ông Huấn, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hải Phòng lập biên bản sự việc và niêm phong số tiền hai mươi triệu đồng (gồm 40 tờ mệnh giá 500 nghìn đồng). Ông Nguyễn Văn Bình hiện là đại biểu Quốc hội TP Hải Phòng.
Qua tìm hiểu PV Tiền Phong được biết, sáng 11/8, ông Nguyễn Văn Bình gọi điện rồi đến cơ quan ông Phạm Văn Huấn chơi. Tại phòng làm việc của ông Huấn, câu chuyện ông Bình nói xoay quanh việc bầu chọn vị trí chủ tịch UBND TP Hải Phòng sắp tới và ông Bình có ý khuyên ông Huấn nên bầu cho ông T. hiện là ứng cử viên sáng giá chức chủ tịch Thành phố.
Trước khi ra về, ông Bình đặt lên bàn làm việc của ông Huấn một phong bì và nói có tý quà, rồi ra về. Mở phong bì mà ông Bình để lại, ông Huấn thấy có hai mươi triệu đồng. Nhiều ngày sau đó, ông Huấn liên tục gọi điện cho ông Bình đề nghị được trả lại số tiền này nhưng ông Bình từ chối nhận lại phong bì.
Sáng 28/9, trao đổi với Tiền Phong, ông Lê Vũ Thành, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hải Phòng cho biết, đã nhận được toàn bộ hồ sơ vụ việc và đang mời các cá nhân có liên quan đến Ủy ban Kiểm tra làm việc.
Ông Thành cũng cho hay, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy đang gấp rút làm rõ sự việc để sớm ổn định tình hình, nhằm kiện toàn chức vụ chủ tịch UBND Thành phố sắp tới.
Được biết, ngày 1/10, ông Trịnh Quang Sử, Chủ tịch UBND TP Hải Phòng sẽ nghỉ hưu theo quy định. Dù PV Tiền Phong cố gắng liên lạc với ông Nguyễn Văn Bình nhiều lần nhưng ông Bình vẫn từ chối gặp. Việc ông Phạm Văn Huấn tố cáo có đúng hay không phải chờ kết luận cuối cùng của cơ quan chức năng.
Lam Khê

Cần tách biệt vấn đề đảo và biển trong việc tìm giải pháp cho tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông

Trọng Nghĩa
Bài đăng ngày 30/11/2009 Cập nhật lần cuối ngày  01/12/2009 18:26 TU
Từ trên xuống dưới và từ trái sang phải : Đảo Phú Lâm (Hoàng Sa), đảo Hoa Lau và Vành Khăn (Trường Sa)(Ảnh : DR)
Từ trên xuống dưới và từ trái sang phải : Đảo Phú Lâm (Hoàng Sa), đảo Hoa Lau và Vành Khăn (Trường Sa)
(Ảnh : DR)
Yêu sách của Trung Quốc đòi chủ quyền trên đảo, vùng biển và vùng đặc khu kinh tế tại Biển Đông căn cứ vào bản đồ hình chữ U mà họ công bố rất phi lý. Theo tiến sĩ Vũ Quang Việt, căn cứ vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các nước như Việt Nam có thể nêu bật những điểm vô lý trong các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh và đưa vấn đề ra trước quốc tế.
Tình hình căng thẳng tại Biển Đông do hành động lấn áp của Trung Quốc đối với các nước không chấp nhận chủ quyền tự tuyên bố của Bắc Kinh ngày càng đánh động dư luận quốc tế. Các mối quan ngại này vừa được các nhà nghiên cứu Việt Nam và quốc tế nêu bật trong hai ngày hội thảo ở Hà Nội hôm 26 và 27/11/2009. Trước đó không lâu, ngày 18/11, một nhóm học giả Mỹ Việt cũng đã lên tiếng cảnh báo về các diễn biến đáng lo ngại nói trên nhân một cuộc hội thảo do Đại Học Yale nổi tiếng tại Hoa Kỳ tổ chức với chủ đề ''Biển Đông trong bối cảnh Việt Nam'' (South China Sea in the Vietnamese Context).
Cuộc họp đã tập hợp được nhiều chuyên gia về Châu Á và Việt Nam, nhất là những người thường xuyên theo dõi tình hình Biển Đông đang làm việc tại Mỹ như nhà báo tên tuổi Nayan Chanda, thuộc đại học Yale, giáo sư Ken MacLean, Đại Học Clark, học giả Nguyễn Trung, nguyên thành viên ban cố vấn chính phủ Việt Nam, giáo sư Ngô Vĩnh Long, Đại học Maine, Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên chuyên gia thống kê cao cấp tại Liên Hiệp Quốc.
Có ba bài tham luận đã được dùng làm cơ sở cho ngày hội thảo tại Đại Học Yale : Trước hết là bản báo cáo của Giáo sư Ken MacLean : ''Tranh chấp trên vùng Biển Đông mở rộng'' (Dispute over the Greater South China Sea) ; kế đến là bài tường trình của học giả Nguyễn Trung : ''Biển Đông và các vấn đề an ninh tại Đông Nam Á'' (South China Sea and Security Issues in Southeast Asia) ; sau cùng là tham luận của tiến sĩ Vũ Quang Việt về đề tài : ''Tìm kiếm một giải pháp đúng đắn và hoà bình cho vùng Biển Đông Nam Á'' (In Search of a Just and Peaceful Solution to the Southeast Asian Sea).
Bài tham luận của ông Vũ Quang Việt đã thu hút sự chú ý của cử tọa do một số đề nghị khá độc đáo ít được nêu lên từ trước đến nay : cần phải tách biệt hai loại tranh chấp đang diễn ra trong vùng Biển Đông để tìm ra một giải pháp thích ứng, một bên là tranh chấp về các hòn đảo trong vùng Trường Sa và Hoàng Sa, và bên kia là tranh chấp các vùng biển trong khu vực.
Theo ông Vũ Quang Việt, căn cứ vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các nước như Việt Nam có thể nêu bật những điểm vô lý trong các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh, đồng thời vận động quốc tế để tạo ra sức ép trên Trung Quốc.
Phi đạo dài 2.600 mét mà Trung Quốc đã xây dựng trên đảo Phú Lâm, hòn đảo lớn nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa(Ảnh : DR)
Phi đạo dài 2.600 mét mà Trung Quốc đã xây dựng trên đảo Phú Lâm, hòn đảo lớn nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa
(Ảnh : DR)
Đối với ông Vũ Quang Việt, duy trì nguyên trạng như hiện nay là điều không tưởng vì lợi dụng sức mạnh về quân sự và kinh tế, Trung Quốc sẽ ngày càng lấn lướt, để áp đặt chủ quyền của họ trên hầu như toàn bộ vùng Biển Đông mà lần đầu tiên họ đã nêu rõ trong tấm bản đồ hình chữ U công bố tháng năm vừa qua.
Theo ông Việt, Việt Nam và ASEAN cần phải khai thác những cái vô lý trong tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, đặc biệt là những điểm nhập nhằng giữa vấn đề đảo đá, đảo thực thụ và vùng biển lịch sử, vùng đặc quyền kinh tế, để tìm kiếm những phương cách ngăn chặn ý đồ của Trung Quốc muốn biến Biển Đông thành ''cái hồ'' của họ.
Đối với ông Vũ Quang Việt, ASEAN, các nước Châu Á khác, thậm chí Hoa Kỳ cũng vậy, cần đưa vấn đề này ra Tòa án quốc tế vì tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông đe dọa nghiêm trọng quyền tự do lưu thông hàng hải.
Một cách cụ thể chuyên gia Vũ Quang Việt cho rằng không nên đánh đồng các mỏm đá, bãi đá ở Biển Đông với hải đảo thực thụ, cần xác định rõ quy chế các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng tinh thần Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và đấu tranh chống đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên tinh thần đó.
Sau đây, mời quý vị nghe bài phỏng vấn mà Tiến sĩ Vũ Quang Việt đã dành cho RFI.

Nhà nghiên cứu Vũ Quang Việt tại Hoa Kỳ




30/11/2009
Nội dung bài phỏng vấn :
Ba yêu sách nhằm biến Biển Đông thành cái hồ của Trung Quốc
Trung Quốc cho đến bây giờ có thể nói rằng họ có 3 yêu sách. Một là yêu sách về chủ quyền trên toàn bộ các đảo trên Biển Đông. Ngoài ra, họ còn yêu sách về vùng biển bên trong đường chữ U, nghiã là tất cả biển nằm trong vùng chữ U đó là thuộc về họ. Tức là như vậy, ngoài tất cả các hòn đảo, thì cả biển lẫn nguyên vật liệu dưới đáy biển, như dầu hỏa, đều phải thuộc về họ. Yêu sách thứ ba là Trung Quốc cũng muốn có cái đặc quyền kinh tế trong khu vực đảo mà họ coi là quần đảo.
Hai yêu sách đó không phù hợp với nhau, vì khi có một yêu sách này thì không thể đòi yêu sách kia. Nhưng Trung Quốc sẽ làm đủ mọi cách, dù là hợp lý hay không hợp lý, để vừa đòi chủ quyền đảo vừa đòi chủ quyền biển. Và nếu không được chủ quyền biển, thì họ sẽ khoanh vùng biển chung quanh những hòn đảo đó để đòi hỏi chủ quyền về khu đặc quyền kinh tế.
Và chỉ riêng vấn đề khu đặc quyền kinh tế, thì Trung Quốc cũng đã vi phạm luật pháp quốc tế. Họ nói đây là khu vực mà các nước khác khi qua lại phải xin phép Trung Quốc. Họ đã cấm tàu Mỹ, đuổi tàu Mỹ ra khỏi khu vực mà từ xưa đến giờ các nước có quyền đi lại, mà luật biển quốc tế cho phép các nước có quyền đi lại.
Nếu Biển Đông bị Trung Quốc kiểm soát, tàu bè không được phép đi qua sẽ phải đánh một đường vòng rất xa(Ảnh : DR)
Nếu Biển Đông bị Trung Quốc kiểm soát, tàu bè không được phép đi qua sẽ phải đánh một đường vòng rất xa
(Ảnh : DR)
Nói chung là họ muốn biến toàn bộ khu vực Biển Đông thành một cái hồ của Trung Quốc, để rồi tất cả các nước, nếu muốn qua lại thì phải có phép của Trung Quốc, còn nếu không, thì phải đi đường vòng rất xa. Chiến lược dài lâu của Trung Quốc là kiểm soát toàn bộ Biển Đông, và họ cũng đã nói thẳng với Mỹ là muốn chia Thái Bình Dương làm hai khu vực. vùng Biển Đông là của họ, còn khu vực ngoài Hawaii là của Mỹ.
Tôi không hy vọng là Trung Quốc sẽ tham khảo hay nghe lời mình nói để thay đổi thái độ, nhưng vấn đề chính nằm ở chỗ là bây giờ vấn đề tranh chấp không chỉ giữa Việt Nam và Trung Quốc, hoặc thêm một vài nước khác như Philippines hay Malaysia, mà đây là một cuộc tranh chấp mang tính quốc tế..
Giải quyết tranh chấp theo hướng tách biệt giữa đảo và biển
Dựa trên cơ sở luật biển của Liên Hiệp Quốc, cần phải phân ra giải quyết biển riêng và đảo riêng. Về đảo, thứ nhất phải phân tách rõ là những cái gọi là đảo bây giờ nó có phải là đảo thực thụ hay là chỉ là đá. Luật biển Liên Hiệp Quốc có viết rõ là đảo phải luôn luôn là nằm phiá trên mặt nước khi thủy triều lên, phải là có cái đời sống kinh tế đủ để nuôi sống con người, giúp con ngườI tự tồn tại được.
Bây giờ trong vùng, những hòn đảo có thể nói là quá nhỏ không có thể nào làm nông nghiệp hay là có thể tự nuôi cư dân. Đảo lớn nhất bây giờ chủ yếu chỉ có 600 lính, và được cung cấp thực phẩm các nơi khác đem tới.  Các hòn đảo bây giờ có to hơn vì người ta tự xây dựng thêm trên đó. Nhưng theo luật biển quốc tế, những cái do con người tự tạo lên trên những cái đảo đá đó, thì không được kể tới.
Tình trạng là có rất nhiều mỏm đá mà hầu hết trước đây chìm dưới biển,  hiện giờ trồi lên và biến thành hòn đảo : nhiều nước xây dựng trên đó những công trình giống như là pháo đài, có nước xây dựng cả phi trường để biến nó thành đảo, dùng cái đó để mà cho rằng mình có chủ quyền trên những ''hòn đảo'' đó. Ngay cả Việt Nam cũng làm, tức là biến những hòn đá thành đảo.
Malaysia đã xây dựng cơ sở kiên cố trên đảo Hoa Lau (Swallow) :  ảnh chụp vào giai đoạn trước (T) và hiện nay (P)(Ảnh : DR)
Malaysia đã xây dựng cơ sở kiên cố trên đảo Hoa Lau (Swallow) : ảnh chụp vào giai đoạn trước (T) và hiện nay (P)
(Ảnh : DR)
Và khi đá trở thành đảo, thì luật quốc tế cho cái gì ? Trên nguyên tắc, người ta có thể có 200 dặm kể từ đường biên của nó ra ngoài khơi, thậm chí có thể có nhiều hơn nếu có thêm thềm lục điạ, đến trên 300 dặm. Như vậy làm vấn đề phức tạp thêm lên.
Theo đúng luật quốc tế, theo tôi, tất cả các hòn đảo ở trong vùng chỉ là đá mà thôi thôi. Có nghiã là các nước nếu có chủ quyền trên những hòn đá đó, thì cũng chỉ được 12 dặm chung quanh mà thôi. Như vậy, phần còn lại của Biển Đông sẽ là biển quốc tế, nơi mọi người có quyền tự do đi lại. và nếu khai thác tài sản dưới đáy biển, thì phải chia sẻ với nhau, thay vì  tranh giành, dùng quyền lực để mà chiếm đoạt như hiện nay.
Đây là điểm quan trọng trong luật biển của Liên Hiệp Quốc, mà cho đến bây giờ ít có nhà nghiên cứu để ý tới, và nếu muốn giải quyết hoà bình, thì tôi nghĩ đây cũng là việc cũng cần thảo luận để giảm thiểu phần đấu tranh, tranh giành nhau quyền lợi chung quanh các hòn đảo, vì nếu được hòn đảo, thì cũng chỉ được 12 dặm chung quanh mà thôi, phần còn lại là biển.
Tính chất vô lý trong yêu sách về đường chữ U của Trung Quốc
Trung Quốc chỉ vẽ ra tấm bản đồ này từ năm 1947. Mà trong lịch sử, từ xưa đến giờ họ có bao giờ kiẻm soát được Biển  Đông hay là cố gắng kiểm soát Biển Đông đâu ! Muốn gọi là biển lịch sử thì phải có sự kiểm soát từ xưa đến giờ, có nghiã là mọi người đi qua Biển Đông thì phải nộp thuế cho Trung Quốc, phải xin phép Trung Quốc, v.v..
Cũng giống như là nếu có một con sông nối liền từ Việt Nam sang Kampuchea, nếu Kampuchea muốn đem hàng hóa ra biển qua con sông Việt Nam, thì phải nộp thuế, phải xin phép. Điều này Trung Quốc chưa bao giờ làm được đối với Biển Đông. Do đó từ xưa đến giờ, chưa bao giờ đó là hải phận của Trung Quốc.
Dĩ nhiên ta có thể đem hồ sơ ra toà án quốc tế. Từ xưa đến giờ sau nhiều lần tranh chấp với Pháp, thờI họ còn cai trị Việt Nam, Pháp đã hai lần yêu cầu cùng với Trung Quốc ra toà án quốc tế để giải quyết vấn đề tranh chấp thì Trung Quốc đều từ chối. Điều này có nghiã là trong tương lai, Trung Quốc cũng sẽ từ chối thôi. Vì nếu mà đưa thì chắc chắn là họ thua. Thế thì về cơ bản là họ sẽ dùng quyền lực về quân sự và trong tương lai là cả sức mạnh về kinh tế, để có thể đòi hỏi chủ quyền ở khu vực này.
Trước tình trạng đó, một nước như Việt Nam, hay là một số nước chung quanh, hay là Mỹ, có thể yêu cầu toà án quốc tế, không phải là xử lý mà là cho ý kiến về vấn đề Trung Quốc gọI Biển Đông là biển lịch sử của họ, xem điều đó có hợp lý hay không. Thì phải cần có một cuộc vận động trên thế giới để người ta hiểu biết rõ vấn đề này. Các nhà luật học, các nhà nghiên cứu cũng phải nghiên cứu kỹ xem coi vấn đề được xử lý như thế nào. Tôi thấy rằng là đây là vấn đề quốc tế chứ không phải là vấn đề song phương.
Không nên bó khuôn trong các giải pháp song phương
Vấn đề tranh chấp Biển Đông là tranh chấp đa phương. Mọi nước đi qua khu vực đó chứ không phải chỉ có Việt Nam hay là Philippines... 50% hàng hóa trên thế giới, thương mại thế giới là đi qua Biển Đông, hàng hóa của Mỹ, của các nước Đông Nam Á, của Nhật, của Đài Loan v.v..ngay cả của Trung Quốc cũng đi qua khu vực đó.
Nếu mà kiẻm soát được khu vực đó, cấm mọi người đi qua, tức là có thể kiểm soát được vấn đề thương mại của toàn khu vực. Do đó mọi người đều có cái quyền lợi ở vùng Biển Đông, chứ không phải chỉ có người Đông Nam Á mà thôi. Đây là vấn đề liên quan đến biển.
Thế còn những vấn đề khác, nếu mà có cái gọi là song phương, thì tôi nghĩ là Việt Nam cùng lúc phải giải quyết vấn đề song phương với lại Philippines. Vấn đề không phải là biển nữa mà là liên quan đến một số hòn đảo, hoặc liên quan đến việc phân chia như thế nào khu đặc quyền kinh tế. Đó là vấn đề tôi nghĩ Việt Nam phải làm.
Trên vấn đề này, tôi nghĩ là Việt Nam cũng phải thay đổi quan điểm. Hồi xưa,  mình có cảm tưởng rằng Việt Nam cũng muốn là cả Biển Đông là của mình... Bây giờ tôi có cảm tưởng họ đã thay đổi và họ chỉ nói về đảo. Có nghiã là Việt nam đòi hỏi chủ quyền trên đảo.
Ngoài ra thì Việt Nam cũng rất giống Trung Quốc ở chỗ là Việt Nam đòi hỏi là trong phạm 200 dặm trong khu vực đặc quyền kinh tế, tàu bè nước ngoài không được đi qua, mà tàu quân sự thì phải xin phép. Đấy cũng là quan điểm của Trung Quốc. Theo tôi, khu vực Biển Đông chỉ có một vài người nước có khả năng theo dõi vấn đề an ninh : Mỹ, Trung Quốc, và cùng lắm là Nhật Bản.
Do đó, nếu đi theo quan điểm của Trung Quốc mà cấm không cho tàu Mỹ đi qua đó thì tôi nghĩ là làm như vậy sẽ giúp cho Trung Quốc hoàn toàn làm chủ cái Biển Đông rồi. Thành ra, quan điểm của Việt Nam cho rằng tàu quân sự không được đi qua khu vực chỉ có lợi cho Trung Quốc. Tôi cho rằng Việt Nam nên thay đổi quan điểm này.

Lạm thu phí cầu đường


Lao Động số 276 Ngày 04/12/2009 Cập nhật: 8:21 AM, 04/12/2009


(LĐ) - Trong khi Hiệp hội Vận  tải hàng hoá TP.Hồ Chí Minh gửi văn bản đề nghị Thanh tra Chính phủ thanh tra việc trạm thu phí xa lộ Hà Nội thu phí oan người dân và doanh nghiệp trong suốt 8 năm qua, thì tại trạm thu phí Sông Phan – Bình Thuận, nhiều tài xế xe tải dừng xe không chịu mua vé qua trạm vì bị thu oan gần 1 năm nay.

Hoá ra cái cảnh oan phí không còn là đặc sản của riêng một địa phương, mà trở thành phổ biến toàn quốc.


Ở TP.Hồ Chí Minh, giấy phép thu phí đường Điện Biên Phủ, nhưng đưa trạm ra xa lộ Hà Nội để thu thêm tiền của thiên hạ. Còn ở Bình Thuận, trạm Sông Phan lại thu phí cho việc xây cầu Đồng Nai cách đó 200km, cầu hiện nay vẫn đang xây mà trạm đã thu phí gần 1 năm. Xe của người dân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận không hề lăn bánh đến tận cầu Đồng Nai giáp với TP.Hồ Chí Minh, lại phải đóng tiền hằng ngày?


Không thể tưởng tượng được các ngành chức năng cho phép doanh nghiệp móc túi người dân ngang nhiên như vậy. UBND TP.Hồ Chí Minh đỡ đầu cho đơn vị khai thác qua mặt dân, lấy tiền của dân, báo chí lên tiếng mà vẫn chưa giải quyết rốt ráo.


Còn trạm Sông Phan thì sao, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận gửi đơn kiến nghị lên Bộ Tài chính, Bộ GTVT, UBND tỉnh Bình Thuận, nói rõ việc thu phí oan này. Đơn gửi từ đầu năm, nhưng không cơ quan nào trả lời dân, các bộ ở xa không trả lời đã đành, còn UBND tỉnh Bình Thuận là chính quyền địa phương cũng không xem xét thì có phải là thái độ coi thường dân?


Thật khó hiểu vì sao các đơn vị khai thác thu phí lại được ưu ái đến như vậy, không hiểu vì sao chính quyền lại im hơi lặng tiếng trước việc làm trái ngang đó? Dân lý giải rằng một số quan chức có chân trong các “trạm” đó, nên họ nhắm mắt để thu lợi. Không ông quan nào dại dột đứng tên trong doanh nghiệp đầu tư xây dựng nên khó có thể bắt tận tay họ. Tuy nhiên, sự tồn tại thu phí oan sai là chứng cứ hùng hồn nhất về sự hiện diện của hành vi đen tối.


Người dân và dư luận mong Thanh tra Chính phủ vào cuộc, làm rõ số tiền thu phí oan của trạm thu phí xa lộ Hà Nội đi đâu về đâu, có bàn tay nào nhúng vào cái trạm béo bở này không. Doanh nghiệp Bình Thuận cũng nên học Hiệp hội Vận tải hàng hoá TPHCM, đề nghị Thanh tra Chính phủ làm rõ trắng - đen vụ oan phí Sông Phan.


Lê Chân Nhân

Đổi tiền, dân tình hỗn loạn vì trắng tay

Bắc Triều Tiên

Tình trạng hỗn loạn đã nổ ra ở Bắc Triều Tiên vào ngày thứ ba, sau khi chính phủ của ông Kim Jong-il thực hiện đổi tiền. Dân chúng hoảng sợ và giận dữ, bởi tiền bạc họ tích luỹ được trở thành giấy lộn. Một lượng lớn tiết kiệm của người dân sẽ mất trắng trong lần đổi tiền này.

Đến nay các tổ chức nhân đạo ghi nhận được ít nhất một cặp vợ chồng tự tử vì mất sạch khoản tiền tiết kiệm sau đổi tiền. Thời hạn đổi tiền kéo đến ngày 6.12. Tiền mới bắt đầu lưu hành từ ngày 7.12. Chosun Ilbo cho biết người dân được đổi tối đa 150.000 won tiền mặt (tương đương 60 USD trên thị trường chợ đen) với tỷ lệ 100:1 và 300.000 won nếu có tài khoản ký gửi ngân hàng. Số tiền còn lại sẽ bị tịch thu sung công quỹ. Một cư dân ở Sinuiju, thành phố sát biên giới Trung Quốc, thốt lên: "Tôi đã làm như một con chó suốt hai tháng qua để dành tiền cho mùa đông. Số tiền đó trở thành giấy lộn chỉ sau một đêm".

Park Sang-hak, một cựu đảng viên Bắc Triều Tiên đã bỏ trốn sang Hàn Quốc, khoe xấp tiền 5.000 won cũ của Bắc Triều Tiên. Ảnh: Reuters

Theo một số tin tức từ Hàn Quốc, khi những tin đồn về việc đổi tiền xuất hiện, người dân đã đổ xô đi mua các nhu yếu phẩm bằng tiền cũ. Vì thế, giá gạo đã nhanh chóng tăng lên 20 lần và ngũ cốc tăng lên đến 20 lần chỉ trong một tuần từ 2.000 won/kg lên 40.000 won/kg, trong khi giá đậu hũ miếng tăng từ 500 won lên 10.000 won. Các chợ bị đóng cửa trong thời gian đổi tiền, nên tình hình hoảng loạn càng tăng cao.

Những người giàu có tại các khu vực thành thị cũng đổ về các vùng nông thôn chậm nắm bắt thông tin với hy vọng có thể mua được hàng hoá bằng tiền cũ. Người dân ùn ùn kéo nhau đổi tiền cũ lấy USD và nhân dân tệ. Ở thành phố Hoeryong, một vụ giẫm đạp lên nhau xảy ra khi người dân kéo nhau đến một ngân hàng để đổi tiền cũ lấy đôla trước khi lệnh đổi tiền bắt đầu. Binh sĩ được điều động đến để phong toả ngân hàng này.

Bình Nhưỡng đã tăng cường các biện pháp an ninh phòng ngừa bất ổn sau lệnh đổi tiền. Hiện nhiều người tại các chợ ở những thành phố lớn đang lên tiếng chỉ trích chính phủ. Các nguồn tin tình báo của Hàn Quốc cho hay, Bắc Triều Tiên đã nâng mức cảnh giác an ninh đề phòng dân chúng nổi loạn. Các doanh trại được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Ở tỉnh Hamkyung, chính phủ còn đặt lệnh giới nghiêm. Chính quyền Bình Nhưỡng cảnh cáo sẽ trừng phạt thẳng tay những ai vi phạm luật đổi tiền lần này.

Hiện nay, Bắc Triều Tiên vẫn chưa xác nhận lý do đổi tiền. Giới phân tích chỉ đoán được vài lý do. Một là Bắc Triều Tiên muốn tiêu diệt thị trường chợ đen. Thị trường chợ đen đóng vai trò chính ở Bắc Triều Tiên hiện nay. Hàng hoá lưu hành trên thị trường này chủ yếu là hàng nhập lậu từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Ngay cả nông dân cũng nhờ thị trường chợ đen để tồn tại thay vì nhờ vào hệ thống cung cấp và phân phối của nhà nước. Than đá, dầu, máy móc… là hàng cấm, nhưng có mặt đầy đủ trên thị trường chợ đen.

Hai là, một quan chức Hàn Quốc được trích dẫn trên báo Dong'a Ilbo nói: "Bình Nhưỡng làm vậy để kiểm soát tiền bạc trong nước, điều mà xưa nay nhà nước quản lý không được". Trong những năm gần đây, những người kinh doanh cất giấu một phần lớn của cải tiền mặt nhờ vào những công việc làm ăn có lợi nhuận khá tốt trên thị trường chợ đen. Số người này hình thành nên tầng lớp trung lưu ở Bắc Triều Tiên. Tầng lớp này có khoản tiết kiệm khoảng một triệu won/gia đình, nhiều người có tới hàng chục triệu won. Với cách đổi tiền, chính phủ truy thu lượng tiền của những người này, trừ khi họ kịp chuyển đổi số tiền của họ ra euro, USD hay nhân dân tệ. Lý do cuối cùng là kiểm soát lạm phát.

Minh Trí – Kim Dung (tổng hợp)

Sông Hồng cạn “trơ đáy”, Bắc Bộ đối mặt hạn hán

(Dân trí) - Sông Hồng đang trải qua mức cạn lịch sử nhất trong vòng 107 năm qua. Tình trạng thiếu nước ở các hồ thuỷ điện và hạn hán trên diện rộng ở Bắc Bộ đã nhìn thấy rõ.

Ông Đặng Ngọc Tĩnh - Trưởng Phòng Dự báo thủy văn Bắc bộ thuộc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn trung ương cho biết, sáng nay 4/12, mực nước sông Hồng tại Hà Nội chỉ còn 1,36m. Trong năm nay, sông Hồng đã 5 lần xuống thấp kỷ lục, đó là vào các tháng 3, 8, 10, 11 và 12. Đặc biệt tháng 11, mực nước sông đã xuống mức 0,76m (7h ngày 8/11), mức thấp trong vòng 107 năm qua.

Theo ông Tĩnh, nguyên nhân khiến sông Hồng luôn trong tình trạng trơ đáy trong thời gian qua là do năm nay mùa mưa lũ ở Bắc Bộ đến muộn lại kết thúc rất sớm, tháng mưa ngâu năm nay cũng thiếu vắng hoàn toàn. Trong khi ở thượng nguồn các các nhà máy thủy điện ở Trung Quốc và Việt Nam hiện đang trong gia đoạn tích nước.
 
Người dân lội bộ qua sông Hồng đoạn Tứ Liên - Tây Hồ. (Ảnh: V.Hưng)
 
Dù vậy, theo báo cáo mới nhất, hiện các hồ chứa phục vụ công trình thuỷ điện ở Bắc Bộ vẫn đang trong tình trạng thiếu nước nghiêm trọng. Các hồ lớn như Thác Bà, Tuyên Quang mới đạt mức chứa 61% so với thiết kế. Hệ thống hồ vừa và nhỏ cũng chỉ đạt cao nhất 80% so với mức nước đạt yêu cầu. Với lượng nước tích trữ hạn chế như hiện nay thì toàn miền Bắc sẽ có nguy cơ thiếu điện trầm trọng.
 
Bãi cát nổi giữa cầu Long Biên và Chương Dương. (Ảnh: V. Hưng)
  
Cục Thủy lợi, Bộ NN&PTNT cho biết, nhiều địa phương đã không thể hoàn thành kế hoạch tích nước, phục vụ tưới tiêu cho vụ Đông xuân. Hiện chỉ có 2/17 hồ chứa lớn ở miền Bắc tích đủ nước phục vụ cho nông nghiệp. Toàn vùng Bắc Bộ đang đối mặt với tình trạng hạn hán kéo dài.
 

Những trụ chống lũ cho cầu Long Biên lộ trơ trên móng mực nước (Ảnh: V.Hưng)

Giao thông đường thuỷ cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi mực nước không đảm bảo cao tối thiểu 2,1m để tàu bè đi lại.

Ông Tĩnh cho hay, khoảng tháng 2 năm tới  tình trạng hạn hán sẽ bớt gay gắt do Bắc Bộ đi qua mùa khô, độ ẩm sẽ tăng cao, mưa cũng bắt đầu xuất hiện trở lại.

Thanh Trầm

Praying for Vietnam The plight of Father Nguyen Van Ly

By MARAN TURNER

While praying one recent Saturday morning this month, Father Nguyen Van Ly collapsed on the floor unconscious. It was his second stroke in four months, and the combined effect has left him partially paralyzed. Father Ly experienced these two strokes not with loved ones near him, but alone in a prison near Hanoi.

The 63-year-old Roman Catholic priest is among Vietnam's most prominent imprisoned activists. For over three decades, he has fought for freedom of expression and religion—beliefs which led him to advocate for a multi-party democracy in Vietnam. In 2006, he co-founded Bloc 8406, a pro-democracy organization. The next year, he was convicted by a Communist Party court of spreading propaganda, and placed in solitary confinement. This is not Father Ly's first period of detention; he has spent more than 16 years in prison since 1977.

Father Ly's re-arrest underscores that Hanoi is backsliding on earlier progress on human rights; a trend that has intensified recently with the arrest of journalists, bloggers and human-rights activists who express any criticism of the one-party state. Among the political arrests this year was Le Cong Dinh, a prominent lawyer who had defended many activists before he was arrested in June.

The circumstances surrounding Father Ly's failing health is cause for great concern. His family, including siblings and nephews were not informed of the first stroke for more than a month after it happened in July. After his second stroke, Father Ly was taken to a hospital, where he is surrounded by five guards. While some family members have been admitted to his bedside, fellow priests have been turned away. This kind of seclusion is common for all political prisoners in Vietnam, but even more so for Father Ly whose ability to inspire others, even from prison, is extraordinary.

Father Ly's treatment has sparked concern well beyond the borders of his country. In July, 37 U.S. Senators sent a letter to President Nguyen Minh Triet, calling for Father Ly's release and inquiring about his health. Following news of his the two strokes, the U.S. government, as well as members of the Australian government, have repeated calls for Father Ly to be provided with medical treatment and ultimately released. Though Vietnam is frequently cited for its poor human rights records by the U.S. State Department, it appears on no formal watch list.

Father Ly's plight showcases Vietnam's persistent violations of basic human rights; violations that fly in the face of the country's integration into the broader international community in recent years. Hanoi could start to repair its reputation by releasing Father Ly on humanitarian grounds and permitting his family to provide for his medical needs. Such a move would not only show compassion, it would demonstrate commitment to the rule of law. It is incumbent on all countries who value human rights to raise Father Ly's case, and the cases of other political prisoners, more vocally.

Ms. Turner is the executive director of Freedom Now in Washington and international counsel to Father Ly.

Đọc sử để nhìn nhận hôm nay

Luật sư Lê Công Định

Gửi cho BBCVietnamese.com từ Sài Gòn

Từ khi bắt đầu vào đại học lúc 17 tuổi đến nay, tôi vẫn giữ thói quen đều đặn hàng năm dành khoảng hơn một tháng đọc sách vở và tài liệu viết về đề tài Việt Nam, quá khứ cũng như hiện tại, chủ yếu nhằm giúp trao dồi vốn kiến thức hạn hẹp của tôi về lịch sử nước nhà.

Tây Nguyên là vùng đất quan trọng chiến lược của Việt Nam

Tôi thường chọn thời gian làm công việc nhẹ nhàng, nhưng đầy hào hứng này vào độ trung tuần tháng 3 đến cuối tháng 4 mỗi năm. Đó cũng là khoảng thời gian của một năm thường gợi nhớ trong tôi nhiều biến cố vui buồn lẫn lộn, vừa hào hùng nhưng cũng vừa bi thương, của dân tộc.

'Vai trò Tây Nguyên'

Năm nay, trong số những sách vở và tài liệu tôi đọc có một quyển sách đặc biệt mà năm 18 tuổi tôi đã có dịp xem qua, đó là tập hồi ký "Bên dòng Lịch Sử, 1940-1965" của Linh mục Cao Văn Luận, nguyên Viện trưởng Đại học Huế và Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn. Hơn 20 năm trước tôi đọc quyển sách mang tính chất sử liệu này chủ yếu với ý định tìm hiểu các diễn biến lịch sử, mà vì nhiều lý do khác nhau thầy cô "dạy sử" của tôi ở trường trung học và cả những nhà "nghiên cứu" sử học sau 1975 tránh đề cập đến hoặc cố tình diễn giải sai lệch.

Tuần vừa rồi có dịp mượn lại "Bên Dòng Lịch Sử" từ người bạn lớn tuổi để tra cứu một số chi tiết cần cho công việc nghiên cứu cá nhân, tôi xem lại tập sử liệu một cách say mê, bởi lẽ lần đọc này mang đến cho tôi tâm trạng khác trước, gần như là khám phá mới lạ. Quả thật Linh mục Cao Văn Luận có nhiều cơ hội tiếp xúc và đối thoại với các nhân vật lịch sử khác nhau của Việt Nam ở hai bên chiến tuyến trong giai đoạn từ 1940 đến 1965, nhờ vậy thiên hồi ký của ông đã dẫn dắt người đọc đi qua các biến cố lịch sử trọng đại của đất nước một cách sinh động và lôi cuốn.

Trong phần kể về cuộc gặp gỡ và trò chuyện lần đầu tiên với cố Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm vào nửa đầu năm 1948 tại Đà Lạt, mà Linh mục Cao Văn Luận gọi là "câu chuyện bên lò sưởi năm 1948" (xem từ trang 165 đến 171 của bản in năm 1972), ông có nhắc đến một chi tiết lý thú trong nội dung câu chuyện mà tôi nghĩ ít nhiều liên quan đến một sự việc nghiêm trọng gần đây ở nước ta.

Khi được Linh mục Cao Văn Luận hỏi về chính sách của mình đối với Pháp trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954), ông Ngô Đình Diệm lúc ấy là nhà cách mạng khả kính tại Việt Nam, đã đề cập đến vấn đề Tây Nguyên như sau: "... ít người để ý là người Pháp lập ra Hoàng Triều Cương Thổ, để biến tất cả vùng cao nguyên Trung và Nam Phần thành đất thuộc địa trực tiếp của Pháp." Linh mục Cao Văn Luận không khỏi ngạc nhiên vì Cụ Ngô Đình Diệm dường như xem Tây nguyên là chuyện hệ trọng đối với chủ quyền quốc gia, mà khi ấy dù chưa cầm quyền ông vẫn trăn trở về vận mệnh đất nước trước ý đồ của thực dân Pháp.

Linh mục Cao Văn Luận tường thuật tiếp:

"Ông Diệm trầm ngâm một lúc. Tôi vẫn im lặng. Những lời ông nói ra nửa như suy tư, nửa như phân trần với tôi:

- Vùng Cao Nguyên này có một tầm quan trọng lớn về chiến lược và kinh tế. Về chiến lược, nó nằm ở giữa ba quốc gia Việt Miên Lào. Ai chiếm giữ được Cao Nguyên này có thể gây áp lực được đối với cả ba quốc gia đó. Người Pháp gọi vùng Cao Nguyên là Hoàng Triều Cương Thổ chỉ là một lối trá hình trên thực tế, chủ tâm của họ là biến vùng này thành thuộc địa Pháp. Về mặt kinh tế, thì vùng Cao Nguyên hết sức quan trọng đối với Việt Nam trong tương lai. Ở đó chắc chắn có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhiều khoáng sản chưa được khám phá và khai thác, nhưng chúng ta cần phải bảo vệ cho Việt Nam. Rồi còn vấn đề thể diện quốc gia, chủ quyền quốc gia nữa. Không thể bỗng dưng nhường cho Pháp một vùng đất quan trọng như thế, nằm ngay giữa lãnh thổ quốc gia, người Việt Nam nào muốn lên lại phải xin thông hành!

Ở đó chắc chắn có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhiều khoáng sản chưa được khám phá và khai thác, nhưng chúng ta cần phải bảo vệ cho Việt Nam.

Ngô Đình Diệm, theo lời kể của LM Cao Văn Luận

Tôi (tức là Linh mục Cao Văn Luận) chợt nhớ đến một cuốn sách khảo luận về địa dư Đông Pháp (tức là Đông Dương thuộc Pháp), không nhớ rõ tác giả, và tôi đem những ý kiến được nêu lên trong tập sách này trình bày lại với cụ Diệm:

- Cụ nói đúng. Tôi có đọc một cuốn sách viết đại ý rằng Pháp muốn ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam về phía tây, muốn để dân tộc Việt Nam dừng lại ở các miền duyên hải, còn Pháp thì phải giữ vững vùng Cao Nguyên Trường Sơn, vừa để ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam, vừa canh phòng phía Lào. Như vậy khi lập Hoàng Triều Cương Thổ, đặt trực thuộc Pháp, thì Pháp đã bắt đầu thi hành đúng cái chính sách đó rồi."

Tiếp theo, tại trang 194 và 195, Linh mục Cao Văn Luận kể rằng vào năm 1953 khi ông gặp cụ Ngô Đình Diệm lần thứ hai ở Paris, cụ Diệm một lần nữa nhắc lại vấn đề Hoàng Triều Cương Thổ với nhiều ưu tư và lo lắng hơn, khiến mọi người có mặt lúc ấy đều tỏ ý trách cứ cựu hoàng Bảo Đại mải mê ăn chơi mà không lưu tâm đến bảo vệ chủ quyền quốc gia, đã vậy còn trao hết cho người Pháp toàn quyền khai thác Tây nguyên.

Sử học trung thực

Đọc sử giúp người đời nay có được cơ hội "ôn cố tri tân", học hỏi điều hay lẽ phải của đời trước để làm điều hữu ích cho dân tộc.

Lê Công Định

Đọc xong những đoạn đối thoại quan trọng này trong "Bên Dòng Lịch Sử", tôi hạ quyển sách xuống với tâm trạng bàng hoàng. Chuyện của hơn 60 năm trước đây thật chẳng khác lắm so với vấn nạn của ngày hôm nay. Có điều những nhân vật lịch sử ngày ấy, như cụ Ngô Đình Diệm chẳng hạn, xem chừng rất quan tâm đến lợi ích, chủ quyền và thể diện của quốc gia. Họ trăn trở về điều này và xem Tây Nguyên thực sự là vấn đề ưu tiên trong chính sách của các chính quyền miền Nam thời bấy giờ, nhất là giữa bối cảnh có nhiều kẻ mang dã tâm xâm lược Việt Nam dù công khai hay ẩn ý.

Thật đáng trân trọng biết bao cách viết sử trung thực, tất nhiên theo nhãn quan và hiểu biết tối đa của tác giả, trong đó lối diễn đạt và sử dụng ngôn ngữ chừng mực, thể hiện sự tôn trọng dành cho mọi nhân vật của một thời đã qua, đặc biệt với cả những người không cùng chính kiến với mình. Chính vì vậy, đọc các công trình khảo cứu của giới học giả ở miền Nam trước đây, nhất là trong lĩnh vực sử học mà tôi yêu thích, kẻ hậu sinh ở lứa tuổi tôi thường cảm thấy an tâm và có thể đặt phần lớn niềm tin vào những thông tin và kiến thức mà mình tiếp nhận. Bởi lẽ ít ra các tác giả đó không có gì phải lo sợ khi muốn viết sự thật và trình bày nhận định thật của mình.

Cái hay của sử học trung thực là giúp người đời sau hiểu được các diễn biến lịch sử trong quá khứ, bác bỏ lối đánh giá sai lệch với dụng ý bôi nhọ những nhân vật lịch sử ở bên kia chiến tuyến. Song điều quan trọng hơn cả, đọc sử giúp người đời nay có được cơ hội "ôn cố tri tân", học hỏi điều hay lẽ phải của đời trước để làm điều hữu ích cho dân tộc hầu lưu tiếng thơm muôn đời.

Tất nhiên, không chỉ có gương tốt, lịch sử còn đặc biệt răn dạy người đời sau bằng cả gương xấu. Trong lần đọc lại sử sách nước nhà năm nay, không hiểu vì sao tôi lại quan tâm nhiều đến các nhân vật "thân bại danh liệt" như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống và Hoàng Cao Khải, rồi tự hỏi không biết 30 năm nữa, nếu còn sống, tôi sẽ biết thêm những cái tên nào tương tự như vậy trong lịch sử hiện đại của dân tộc. Bất giác tôi cầu mong điều đó đừng xảy ra...

RFI: Tình trạng thiếu tự do ngôn luận cản trở phát triển ở Việt Nam

  Thanh Phương

Bài đăng ngày 03/12/2009 Cập nhật lần cuối ngày  03/12/2009 14:24 TU

Đầu tư ngoại quốc vào việt Nam giảm đi mất 2/3 trong năm 2009

Đầu tư ngoại quốc vào việt Nam giảm đi mất 2/3 trong năm 2009

Trên đây là nhận định của các nhà tài trợ tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam khai mạc hôm nay tại Hà Nội. Đối với chính quyền Hà Nội, mạng Internet là nơi lan truyền mọi thông tin '' độc hại và có dụng ý xấu '' và là nơi tập hợp '' những lực lượng thù địch ''.


Đối với chính quyền Hà Nội, mạng Internet là nơi lan truyền mọi thông tin '' độc hại và có dụng ý xấu '' và là nơi tập hợp '' những lực lượng thù địch '', như lời của Bộ trưởng Thông tin và Truyền Thông Lê Doãn Hợp tuyên bố trước Quốc hội vào tháng trước.

Thực tế cho thấy là Internet ngày càng trở thành một không gian để người dân Việt Nam hành xử quyền tự do ngôn luận, điều mà họ không thể làm được trên các mặt báo chính thức. Nhưng ngay cả trên không gian này, quyền tự do ngôn luận đang ngày càng bị siết chặt, khiến các nhà tài trợ phương Tây nay phải lên tiếng.

Tuyên bố tại buổi khai mạc hội nghị thường niên các nhà tài trợ cho Việt Nam hôm nay, đại sứ Mỹ tại Hà Nội Michael Michalak đã cho rằng, '' tăng trưởng kinh tế và sự phát triển cần một môi trường thông thoáng và minh bạch cho mọi tác nhân Việt Nam cũng như quốc tế.''

Ông Michalak chỉ trích việc chính quyền Hà Nội gần đây '' siết chặt không gian dành cho các thông tin trung thực và đáng tin cậy ''. Đại sứ Mỹ bày tỏ mối quan ngại trước những thông tin theo đó, việc truy cập vào mạng xã hội Facebook ở Việt Nam trong thời gian gần đây rất khó khăn.

Theo ông, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền trao đổi các thông tin, các ý tưởng cũng như ảnh hưởng đến quyền kinh doanh.

Về phần đại sứ Thụy Điển Rolf Berman cũng bày tỏ mối quan ngại tương tự và  nhân danh Liên hiệp châu Âu, ông đã đã kêu gọi chính phủ Hà Nội bãi bỏ các biện pháp kiểm soát Internet.

Tại hội nghị hôm nay (3/12), các nhà tài trợ cũng tỏ vẻ quan ngại về những quy định mới, mà theo họ, sẽ hạn chế chặt chẽ hơn các phương tiện truyền thông và các tổ chức phi chính phủ.

Theo lời đại sứ Thụy Điển Bergman, '' chính phủ Việt Nam phải cho phép báo chí giám sát các cơ quan quyền lực. Các tổ chức phi chính phủ phải được khuyến khích để tham gia giám sát '', để có thể giúp Việt Nam đạt mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020.

Đại sứ Mỹ Michalak cũng đề cập đến quyết định 97 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nghiêm cấm các tổ chức nghiên cứu tư nhân công bố các ý kiến phản biện những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Theo đại sứ Mỹ, quyết định nói trên '' khiến Việt Nam bớt hấp dẫn hơn so với các đối tác ngoại quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục, nhưng không chỉ trong lĩnh vực này''

Việc nghiên cứu và quyền tự do ngôn luận sẽ còn bị hạn chế hơn với nghị quyết 88 sửa đổi về thành lập hội. Cho nên, Hoa Kỳ kêu gọi chính phủ thông qua một đạo luật không cản trở '' sự phát triển nhanh chóng của xã hội dân sự xuất phát từ tiến trình tự do hóa kinh tế''.

Về phần đại sứ Canada, bà Deanna Horton, yêu cầu chính phủ Việt Nam phải bảo đảm là '' mọi quy định luật lệ mới về các tổ chức xã hội dân sự và báo chí đều phải tạo điều kiện tốt hơn cho người dân tham gia vào sự phát triển của đất nước, thay vì đặt ra thêm những hạn chế mới''. Bà Horton cũng phát biểu nhân danh các nước Na Uy, Thụy Sĩ và New Zealand.

Những lời kêu gọi nói trên được đưa ra vào lúc mà vào tháng trước, theo hãng tin AFP,  một công ty cung cấp dịch vụ Internet cho biết đã nhận được lệnh của Bộ Công An ngăn chận việc truy nhập mang xã hội Facebook ở Việt Nam.  Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng vừa chỉ đạo Bộ Thông tin và Truyền Thông rào soát tất các các trang Web'', kể cả các trang Web đã được cấp phép và xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm.

Chính phủ Việt Nam cũng đang xem xét các quy định mới về xử phạt hành chính những tờ báo nào có những bài viết bị coi là có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước và '' đi ngược lại lợi ích của dân tộc''.

Sở hữu căn hộ tiền tỷ vẫn như đi thuê nhà

> Ở chung cư 5 năm chưa được cấp sổ đỏ
Nhiều năm nay, 66 hộ dân ở tòa nhà 184 Hoàng Quốc Việt (Hà Nội) không làm được sổ đỏ vì cả tòa nhà này bị thiếu các giấy tờ pháp lý. Dân đi tìm chủ đầu tư thì họ đã thay tên đổi chủ mấy lần.

Anh Tùng, chủ căn hộ 603, cho biết, 5 năm trước, các gia đình làm hợp đồng góp vốn mua căn hộ với Công ty CP đầu tư thương mại Asean. Dù nhiều lần yêu cầu chủ đầu tư làm đủ thủ tục để người dân đi xin cấp sổ đỏ, song đơn vị này cứ khất lần. Đến nay, việc chứng nhận quyền sở hữu căn hộ của người dân tại đây vẫn không thể tiến hành.

"Chúng tôi ở nhà mình mà như ở nhà thuê, nhiều người ngoại tỉnh vẫn phải chịu cảnh hộ khẩu tạm trú, con cái phải học trái tuyến, căn hộ không thể thế chấp ngân hàng để vay vốn, nếu bán nhà thì chịu giảm giá vì thiếu sổ đỏ..." anh Tùng bức xúc.

Mối lo lắng của các hộ dân nơi đây là chủ đầu tư cũ đã "biến mất". Theo người dân, đơn vị này đã được chuyển tên đổi chủ mấy lần, địa chỉ công ty cũng thay đổi nhiều nơi. Theo hóa đơn mua bán căn hộ mới đây cấp cho các hộ dân, đơn vị bán là Công ty Đầu tư xây dựng Mỹ Đình. Do vậy, việc yêu cầu đơn vị này thực hiện đúng các thủ tục cho người dân đang được coi là vấn đề nan giải.

Khu ký túc xá Thăng Long với khoảng 80% dân số là các hộ gia đình. Ảnh: Đoàn Loan.

Hơn 100 hộ dân ở khu ký túc xá Thăng Long cũng trong tình trạng tương tự. Từ năm 2003, những hộ dân này đã góp vốn mua căn hộ với chủ đầu tư là Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Thăng Long.

Dự án này ban đầu là xây ký túc xá cho sinh viên ở, sau đó, phần lớn chuyển thành chung cư để bán cho người dân, với 9 khối nhà thì chỉ có 2 khối dành cho sinh viên. Vì dự án xây ký túc xá sinh viên, nên đất là thuê có thời hạn, không được thành phố cấp sổ đỏ. Đến giờ người dân ở đây chưa được biết những khúc mắc này, dù đã nhiều lần yêu cầu chủ đầu tư giải thích rõ nhưng không hề nhận được hồi âm.

Anh Vũ Ngọc Minh, căn hộ 204, nhà B2, cho biết, nhiều người bỏ ra hàng tỷ đồng mua nhà, nhưng không thể làm sổ đỏ và theo đó là không thể đăng ký hộ khẩu, mặc dù nhà ngay cổng trường nhưng con vẫn thuộc diện trái tuyến. Nếu ai đó muốn dùng căn nhà để làm tài sản thế chấp vay ngân hàng lấy vốn làm ăn thì đây là một giấc mơ xa vời. Khu dân cư này cũng chưa thành lập tổ dân phố, không có ban quản trị như các chung cư khác.

Theo ông Bùi Trương Luân, Chủ tịch UBND quận Cầu Giấy, sai phạm của Công ty Thăng Long là rõ ràng, thanh tra thành phố đã yêu cầu đơn vị tuân theo mục đích ban đầu là ký túc xá sinh viên, song họ không chấp hành. Tuy nhiên, việc cấp sổ đỏ của người dân cũng là một vấn đề bức thiết, quận đã kiến nghị thành phố xem xét chuyển đổi mục đích sử dụng đất ký túc xá sang đất ở. Vấn đề này đang được các ngành chức năng xem xét.

Chậm các thủ tục pháp lý để hoàn thiện thủ tục sở hữu nhà ở cho dân là tình trạng khá phổ biến tại nhiều khu dân cư, ngay cả trong các khu đô thị lớn như Pháp Vân, Việt Hưng, Mỹ Đình... Theo nhiều hộ dân ở Nơ 23 Khu đô thị Pháp Vân Tứ Hiệp, họ mua nhà đã 2 năm vẫn chưa nhận được các thủ tục làm sổ đỏ, hỏi chủ đầu tư thì chỉ nhận được câu trả lời là... phải chờ.

Trao đổi với VnExpress.net, luật sư Phan Thanh Bình, Công ty Luật Hồng Hà, cho biết, người dân mua nhà chung cư chưa biết tận dụng các quyền của mình. Khi chủ đầu tư không thực hiện đúng hợp đồng như chậm trễ làm thủ tục để cấp sổ đỏ theo Luật nhà ở thì dân phải khởi kiện ngay bởi theo Luật doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể phá sản, chuyển đổi... sẽ gây khó khăn cho các hộ dân sau này.

Theo ông Bình, với trường hợp chung cư 184 Hoàng Quốc Việt, người dân cần khởi kiện doanh nghiệp đã đổi tên, đơn vị này dù có chuyển đổi vẫn có hợp đồng chuyển giao.

Còn Nguyên thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường Đặng Hùng Võ bày tỏ quan điểm, cơ quan nhà nước phải nghiêm túc chấn chỉnh việc sử dụng đất sai mục đích. Khi chủ đầu tư sai phạm thì phải có biện pháp kiên quyết buộc bồi thường cho người dân và khắc phục sai phạm, hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự nếu sai phạm nghiêm trọng.

"Người dân phải tìm hiểu kỹ về dự án và mạnh dạn khiếu kiện nếu có vướng mắc quyền lợi với chủ đầu tư xây dựng nhà ở", ông Võ nhắn nhủ.

Đoàn Loan

Phỏng vấn Nghị Sĩ Jerzy Browczak: Thời hoạt động bí mật của Công Ðoàn Ðoàn Kết

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=104041&z=205

Thursday, November 12, 2009 Bookmark and Share


medium_JerzyB.jpg

Ông Jerzy Browczak, nghị sĩ Quốc Hội Ba Lan, kiêm phó chủ tịch Hội Ðồng Giám Sát của công đoàn Ðoàn Kết trả lời phỏng vấn báo Người Việt. (Hình: Hà Giang/Người Việt)


Hà Giang/Người Việt

(Viết từ Ba Lan)

GDANSK (NV) - Kể từ khi thành lập Công Ðoàn Ðoàn Kết đến nay, Ba Lan đã được biến đổi thành một xã hội tự do, và sự thành công của Công đoàn Ðoàn Kết trong việc lật độ chế độ cộng sản tại Ba Lan, là một sự kiện quan trọng trong chuỗi những sự kiện đã đưa chế độ Cộng Sản của Ðông Âu đến chỗ hoàn toàn sụp đổ.

Trong chuyến viếng thăm xưởng đóng tàu Gdansk, chúng tôi đã có dịp đi thăm cuộc triển lãm "The Road to Freedom" của Công Ðoàn Ðoàn kết, và phỏng vấn ông Jerzy Browczak, hiện là nghị sĩ Quốc Hội Ba Lan, khóa III, và cũng là phó chủ tịch hội đồng giám sát của CÐÐK. Vào năm 1980 ông Browczak đã tổ chức cuộc đình công đầu tiên tại các nhà máy đóng tầu Gdansk.

Sau đây là nguyên văn cuộc phỏng vấn với ông Jerzy Browczak.

-Hà Giang: Thưa ông, xin ông cho biết bối cảnh lịch sử của Ba Lan trong lúc ông quyết định gia nhập Công Ðoàn Ðoàn Kết, và lý do tại sao ông làm việc đó?

-Jerzy Browczak: Như bà biết, hoàn cảnh đất nước Ba Lan chúng tôi là liên tục bị xâm lược bởi các cường quốc, Nga, Áo, Ðức. Ðến hết Chiến Tranh Thứ Hai thì chúng tôi lại rơi vào vòng ảnh hưởng của Liên Xô. Vào năm 1969, trong cái tinh thần lúc nào cũng khao khát tự do, vì đất nước bị kềm kẹp bởi chế độ thì tôi tham gia vào một cái tổ chức bí mật của công nhân trong một cái xưởng đóng tàu.

-Hà Giang: Vai trò chính của ông ở trong Công Ðoàn Ðoàn Kết là gì?

-Jerzy Browczak: Cùng bạn bè chúng tôi bàn là đã đến lúc phải làm một cái gì để phản kháng. Chúng tôi quyết định là cần phải bắt đầu bằng một cuộc bãi công để phản đối chính quyền vào Tháng Tám, năm 1980, thì tất cả bắt đầu bằng cái cuộc bãi công đầu tiên đó. Khi mà chúng tôi bắt đầu chuẩn bị cái cuộc biểu tình đó thì ông Walesa chưa phải là công nhân của xưởng đóng tầu, ông ấy là công nhân ở phía ngoài. Nhưng mà chúng tôi đoán được cái diễn biến của tình hình là nó sẽ còn tiếp tục cho nên ông Walesa gia nhập với chúng tôi, và ông ấy vào xưởng đóng tàu.

-Hà Giang: Vai trò chính của ông trong thời gian chưa có ông Walesa gia nhập là gì?

-Jerzy Browczak: Nhiệm vụ của tôi là đúng 9 giờ 45 phải tập hợp được công nhân để tổ chức cuộc bãi công biểu tình đầu tiên, tất nhiên là trong khuôn khổ của cái cảng này. Cái cảng này rất lớn, nó gồm rất nhiều bộ phận khác nhau, được gọi là những "K". Thì nơi phân xưởng của tôi làm là phân xưởng K5. Thì tôi phải tập trung toàn bộ số người đi từ phân xưởng này đến phân xưởng trước vòng vòng ra cảng. Thì số người mà tôi tập trung được là từ 300 đến 500 người. Ðó là nhiệm vụ đầu tiên của tôi. Ðến mười giờ thì các phân xưởng khác cũng nhận nhiệm vụ giống như tôi, tập hợp lại. Chúng tôi tập hợp được khoảng mười hai ngàn người. Chúng tôi quyết định thành lập ủy ban bãi công, và tôi trao quyền lãnh đạo lại cho ông Walesa.

-Hà Giang: Ðó là khoảng thời gian nào ạ?

-Jerzy Browczak: Cái cuộc chuẩn bị của chúng tôi là từ mùng bẩy đến mười bốn, vì chúng tôi phải làm áp phích, làm biểu ngữ, để phục vụ cho việc biểu tình. Và chúng tôi quyết định là 9 giờ 45 phút ngày 14 Tháng Tám, năm 1980 thì khởi sự. Ủy ban lâm thời của chúng tôi chỉ có 5 người, để ngăn chặn không cho cơ quan an ninh họ biết. Chúng tôi chỉ 5 người ngồi với nhau, và chỉ 5 người đó biết ngày giờ, chứ không một ai khác biết kế hoạch cả. Sau cuộc bãi công đầu tiên của chúng tôi thì công nhân các vùng biển lân cận cũng tổ chức biểu tình bãi công tiếp theo. Chúng tôi là những người bắt đầu phong trào biểu tình này.

-Hà Giang: Trong tình trạng phải giữ bí mật như vậy, các ông đã làm như thế nào để huy động được một lúc quá nhiều người như vậy?

-Jerzy Browczak: Chúng tôi in cũng phải in lậu, và cái bản in đưa phân phát cho các công nhân, chúng tôi không nói gì đến biểu tình hết, không nói giờ giấc gì hết. Chỉ nói là phải đấu tranh để cải thiện điều kiện làm việc, những điều hết sức bình thường. Tất nhiên có thể là lúc chúng tôi phát thì họ có thể nghi ngờ gì đó, nhưng không ai có thể biết được bao giờ sẽ xẩy ra, vì chúng tôi chỉ có 5 người biết. Chính vì chúng tôi khôn khéo như vậy cho nên khi mà chúng tôi "hô" thì nội dung của tờ truyền đơn họ đã nắm được rồi, nhưng mà không ai biết ngày giờ.

-Hà Giang: Trong quá trình xây dựng Công Ðoàn Ðoàn Kết thì các ông đã gặp phải những khó khăn nào, và làm sao để khắc phục?

-Jerzy Browczak: Khi mà chúng tôi đòi hỏi và chính quyền chấp nhận cho chúng tôi đăng ký hoạt động thì cái khó khăn nhất là an ninh cộng sản. Họ bắt đầu xâm nhập vào tổ chức, họ bắt đầu quấy rối nội bộ. Ðể không bị cô lập, và chống lại sức ép của chính quyền, thì khi xuất phát từ thành phần công nhân chúng tôi, nhưng sau khi thành lập Công Ðoàn Ðoàn Kết thì chúng tôi lôi hết các tầng lớp xã hội khác nhau, trí thức có, nhà văn có, các văn nghệ sĩ, v.v... Công Ðoàn Ðoàn Kết không còn là của riêng công nhân nữa, mà được phất lên khắp nơi, cứ đè bẹp được chỗ này thì chỗ khác lại nổi lên.

-Hà Giang: Trước khi được chính thức thành lập, thì sự hoạt động có khó khăn lắm không?

-Jerzy Browczak: Trước khi mà chúng tôi được đăng ký, thì chính quyền bị sức ép của 6, 7 triệu công nhân của toàn Ba Lan để mà tham gia biểu tình, thì lúc nào an ninh họ cũng tìm cách chia rẽ chúng tôi. Họ phản ứng rất mạnh, họ tuyên truyền đây là tổ chức phản động, gây bất ổn cho đất nước. Trong cuộc đấu tranh của chúng tôi thì ngày 31 là chúng tôi đưa ra 16 cái yêu sách, thì ngày đó là ngày chính quyền cộng sản ký là chấp nhận các yêu sách đó. Tất nhiên là khi đã được đăng cứ thì công nhân thấy yên tâm hơn, họ thấy là họ hợp pháp, chính vì thế mà người ta gia nhập 6, 7 triệu người cùng một lúc.

-Hà Giang: Trong thời gian đấu tranh, có lúc nào ông mệt mỏi muốn bỏ cuộc không?

-Jerzy Browczak: Chưa bao giờ! Họ khiêu khích đã đành, nhưng họ cũng mua chuộc tôi, họ bảo họ mua hộ chiếu cho tôi đi nước ngoài, nhưng thôi không chịu. Bởi vì khi đã có hàng triệu người đồng lòng để đấu tranh cho điều gì mà họ cảm thấy có lợi cho họ và cho đất nước thì tôi biết trước gì đảng cộng sản cũng bị tan rã, thành ra thôi chưa bao giờ có ý bỏ cuộc.

-Hà Giang: Ông có một giai đoạn làm việc rất mật thiết với Walesa, ông có thể kể lại một vài giai thoại không?

-Jerzy Browczak: Walesa? Walesa và tôi, chúng tôi rất thân từ năm 1979. Ông ấy là nhân chứng trong đám cưới của tôi, là cha đỡ đầu của các con tôi, chúng tôi gặp nhau tại các buổi tiệc sinh nhật, kỷ niệm lễ cưới. Chúng tôi luôn luôn sát cánh với nhau. Và có biết bao nhiêu kỷ niệm cá nhân.

-Hà Giang: Công Ðoàn Ðoàn Kết có nhận được sự hỗ trợ nào của nước ngoài, hay các cơ quan nước ngoài không? Khi các công nhân đình công bãi thị, thì gia đình họ lấy gì để sống?

-Jerzy Browczak: Trong những lúc biểu tình hay bãi công, thì chúng tôi nhận được sự hỗ trợ rất lớn của Âu Châu. Nhưng đây không phải là sự giúp đỡ của các chính phủ. Chúng tôi không được sự giúp đỡ về mặt chính trị, vì các nước Châu Âu rất sợ Liên Xô lúc đó. Nhưng chúng tôi nhận được các tổ chức phi chính phủ. Họ vận động và gửi về không biết bao nhiêu là bưu kiện qua các nhà thờ, và các nhà thờ này đem đến cho các gia đình có người bị bắt, bị tù, hay đang biểu tình. Về mặt chính trị, chúng tôi chỉ được sự giúp đỡ của nước Mỹ thôi. Chúng tôi cũng không được sự giúp đỡ của các nhà thờ Ba Lan, nhưng chúng tôi nhận được sự yểm trợ của Tòa Thánh Vatican.

-Hà Giang: Ông có thể tóm lược những yếu tố quan trọng đã đưa CÐÐK đến chỗ thành công, mà các nước khác đang ở trong hoàn cảnh tương tự có thể họ hỏi được.

-Jerzy Browczak: Theo kinh nghiệm của chúng tôi, thì yếu tố thành công là không đối đầu bằng bạo lực. Chúng tôi đã từng bắn vào họ, chúng tôi đã từng đốt nhà đốt cửa, nhưng đều bị dẹp tan tành hết, vì họ có một hệ thống đàn áp rất mạnh. Kinh nghiệm của chúng tôi là không kích động bảo lực, vì bản thân của chúng ta sẽ bị tổn thất. Ðiều thứ hai là cố gắng giải thích cho họ và mọi phía biết, là việc chúng tôi đang làm là tốt cho đất nước, đối với công nhân, thì phải cho họ thấy là gia nhập CÐÐK là có ích lợi thiết thực nhất cho họ. Nói tóm lại, kết hợp mọi người bằng lợi ích chung, và tránh không kích thích sự đàn áp.

Vìdeo trực tiếp từ Paltalk: Diễn Đàn Chính Trị Tranh Luận Dân Chủ

Video#2 : DienDan ChinhTri TranhLuan DanCHu - Live from PalTalk

Log In Paltalk: DienDan_ChinhTri_TranhLuan_DanChu

Liberty