Yêu
sách của Trung Quốc đòi chủ quyền trên đảo, vùng biển và vùng đặc khu
kinh tế tại Biển Đông căn cứ vào bản đồ hình chữ U mà họ công bố rất
phi lý. Theo tiến sĩ Vũ Quang Việt, căn cứ vào Công ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển, các nước như Việt Nam có thể nêu bật những điểm vô lý
trong các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh và đưa vấn đề ra trước quốc
tế.
Tình hình căng thẳng tại Biển Đông do hành động
lấn áp của Trung Quốc đối với các nước không chấp nhận chủ quyền tự
tuyên bố của Bắc Kinh ngày càng đánh động dư luận quốc tế. Các mối quan
ngại này vừa được các nhà nghiên cứu Việt Nam và quốc tế nêu bật trong
hai ngày hội thảo ở Hà Nội hôm 26 và 27/11/2009. Trước đó không lâu,
ngày 18/11, một nhóm học giả Mỹ Việt cũng đã lên tiếng cảnh báo về các
diễn biến đáng lo ngại nói trên nhân một cuộc hội thảo do Đại Học Yale
nổi tiếng tại Hoa Kỳ tổ chức với chủ đề ''Biển Đông trong bối cảnh Việt
Nam'' (South China Sea in the Vietnamese Context).
Cuộc họp đã
tập hợp được nhiều chuyên gia về Châu Á và Việt Nam, nhất là những
người thường xuyên theo dõi tình hình Biển Đông đang làm việc tại Mỹ
như nhà báo tên tuổi Nayan Chanda, thuộc đại học Yale, giáo sư Ken
MacLean, Đại Học Clark, học giả Nguyễn Trung, nguyên thành viên ban cố
vấn chính phủ Việt Nam, giáo sư Ngô Vĩnh Long, Đại học Maine, Tiến sĩ
Vũ Quang Việt, nguyên chuyên gia thống kê cao cấp tại Liên Hiệp Quốc.
Có
ba bài tham luận đã được dùng làm cơ sở cho ngày hội thảo tại Đại Học
Yale : Trước hết là bản báo cáo của Giáo sư Ken MacLean : ''Tranh chấp
trên vùng Biển Đông mở rộng'' (Dispute over the Greater South China
Sea) ; kế đến là bài tường trình của học giả Nguyễn Trung : ''Biển Đông
và các vấn đề an ninh tại Đông Nam Á'' (South China Sea and Security
Issues in Southeast Asia) ; sau cùng là tham luận của tiến sĩ Vũ Quang
Việt về đề tài : ''Tìm kiếm một giải pháp đúng đắn và hoà bình cho vùng
Biển Đông Nam Á'' (In Search of a Just and Peaceful Solution to the
Southeast Asian Sea).
Bài tham luận của ông Vũ Quang Việt đã
thu hút sự chú ý của cử tọa do một số đề nghị khá độc đáo ít được nêu
lên từ trước đến nay : cần phải tách biệt hai loại tranh chấp đang diễn
ra trong vùng Biển Đông để tìm ra một giải pháp thích ứng, một bên là
tranh chấp về các hòn đảo trong vùng Trường Sa và Hoàng Sa, và bên kia
là tranh chấp các vùng biển trong khu vực.
Theo ông Vũ Quang
Việt, căn cứ vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các nước như
Việt Nam có thể nêu bật những điểm vô lý trong các yêu sách chủ quyền
của Bắc Kinh, đồng thời vận động quốc tế để tạo ra sức ép trên Trung
Quốc.
Phi đạo dài 2.600 mét mà Trung Quốc đã xây dựng trên đảo Phú Lâm, hòn đảo lớn nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa
(Ảnh : DR)
Đối
với ông Vũ Quang Việt, duy trì nguyên trạng như hiện nay là điều không
tưởng vì lợi dụng sức mạnh về quân sự và kinh tế, Trung Quốc sẽ ngày
càng lấn lướt, để áp đặt chủ quyền của họ trên hầu như toàn bộ vùng
Biển Đông mà lần đầu tiên họ đã nêu rõ trong tấm bản đồ hình chữ U công
bố tháng năm vừa qua.
Theo ông Việt, Việt Nam và ASEAN cần phải
khai thác những cái vô lý trong tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên
Biển Đông, đặc biệt là những điểm nhập nhằng giữa vấn đề đảo đá, đảo
thực thụ và vùng biển lịch sử, vùng đặc quyền kinh tế, để tìm kiếm
những phương cách ngăn chặn ý đồ của Trung Quốc muốn biến Biển Đông
thành ''cái hồ'' của họ.
Đối với ông Vũ Quang Việt, ASEAN, các
nước Châu Á khác, thậm chí Hoa Kỳ cũng vậy, cần đưa vấn đề này ra Tòa
án quốc tế vì tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông đe dọa
nghiêm trọng quyền tự do lưu thông hàng hải.
Một cách cụ thể
chuyên gia Vũ Quang Việt cho rằng không nên đánh đồng các mỏm đá, bãi
đá ở Biển Đông với hải đảo thực thụ, cần xác định rõ quy chế các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng tinh thần Công ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển và đấu tranh chống đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên
tinh thần đó.
Sau đây, mời quý vị nghe bài phỏng vấn mà Tiến sĩ Vũ Quang Việt đã dành cho RFI.
Nhà nghiên cứu Vũ Quang Việt tại Hoa Kỳ
Nội dung bài phỏng vấn :
Ba yêu sách nhằm biến Biển Đông thành cái hồ của Trung Quốc
Trung
Quốc cho đến bây giờ có thể nói rằng họ có 3 yêu sách. Một là yêu sách
về chủ quyền trên toàn bộ các đảo trên Biển Đông. Ngoài ra, họ còn yêu
sách về vùng biển bên trong đường chữ U, nghiã là tất cả biển nằm trong
vùng chữ U đó là thuộc về họ. Tức là như vậy, ngoài tất cả các hòn đảo,
thì cả biển lẫn nguyên vật liệu dưới đáy biển, như dầu hỏa, đều phải
thuộc về họ. Yêu sách thứ ba là Trung Quốc cũng muốn có cái đặc quyền
kinh tế trong khu vực đảo mà họ coi là quần đảo.
Hai yêu sách
đó không phù hợp với nhau, vì khi có một yêu sách này thì không thể đòi
yêu sách kia. Nhưng Trung Quốc sẽ làm đủ mọi cách, dù là hợp lý hay
không hợp lý, để vừa đòi chủ quyền đảo vừa đòi chủ quyền biển. Và nếu
không được chủ quyền biển, thì họ sẽ khoanh vùng biển chung quanh những
hòn đảo đó để đòi hỏi chủ quyền về khu đặc quyền kinh tế.
Và chỉ
riêng vấn đề khu đặc quyền kinh tế, thì Trung Quốc cũng đã vi phạm luật
pháp quốc tế. Họ nói đây là khu vực mà các nước khác khi qua lại phải
xin phép Trung Quốc. Họ đã cấm tàu Mỹ, đuổi tàu Mỹ ra khỏi khu vực mà
từ xưa đến giờ các nước có quyền đi lại, mà luật biển quốc tế cho phép
các nước có quyền đi lại.
Nếu Biển Đông bị Trung Quốc kiểm soát, tàu bè không được phép đi qua sẽ phải đánh một đường vòng rất xa
(Ảnh : DR)
Nói
chung là họ muốn biến toàn bộ khu vực Biển Đông thành một cái hồ của
Trung Quốc, để rồi tất cả các nước, nếu muốn qua lại thì phải có phép
của Trung Quốc, còn nếu không, thì phải đi đường vòng rất xa. Chiến
lược dài lâu của Trung Quốc là kiểm soát toàn bộ Biển Đông, và họ cũng
đã nói thẳng với Mỹ là muốn chia Thái Bình Dương làm hai khu vực. vùng
Biển Đông là của họ, còn khu vực ngoài Hawaii là của Mỹ.
Tôi
không hy vọng là Trung Quốc sẽ tham khảo hay nghe lời mình nói để thay
đổi thái độ, nhưng vấn đề chính nằm ở chỗ là bây giờ vấn đề tranh chấp
không chỉ giữa Việt Nam và Trung Quốc, hoặc thêm một vài nước khác như
Philippines hay Malaysia, mà đây là một cuộc tranh chấp mang tính quốc
tế..
Giải quyết tranh chấp theo hướng tách biệt giữa đảo và biển
Dựa
trên cơ sở luật biển của Liên Hiệp Quốc, cần phải phân ra giải quyết
biển riêng và đảo riêng. Về đảo, thứ nhất phải phân tách rõ là những
cái gọi là đảo bây giờ nó có phải là đảo thực thụ hay là chỉ là đá.
Luật biển Liên Hiệp Quốc có viết rõ là đảo phải luôn luôn là nằm phiá
trên mặt nước khi thủy triều lên, phải là có cái đời sống kinh tế đủ để
nuôi sống con người, giúp con ngườI tự tồn tại được.
Bây giờ
trong vùng, những hòn đảo có thể nói là quá nhỏ không có thể nào làm
nông nghiệp hay là có thể tự nuôi cư dân. Đảo lớn nhất bây giờ chủ yếu
chỉ có 600 lính, và được cung cấp thực phẩm các nơi khác đem tới. Các
hòn đảo bây giờ có to hơn vì người ta tự xây dựng thêm trên đó. Nhưng
theo luật biển quốc tế, những cái do con người tự tạo lên trên những
cái đảo đá đó, thì không được kể tới.
Tình trạng là có rất nhiều
mỏm đá mà hầu hết trước đây chìm dưới biển, hiện giờ trồi lên và biến
thành hòn đảo : nhiều nước xây dựng trên đó những công trình giống như
là pháo đài, có nước xây dựng cả phi trường để biến nó thành đảo, dùng
cái đó để mà cho rằng mình có chủ quyền trên những ''hòn đảo'' đó. Ngay
cả Việt Nam cũng làm, tức là biến những hòn đá thành đảo.
Malaysia đã xây dựng cơ sở kiên cố trên đảo Hoa Lau (Swallow) : ảnh chụp vào giai đoạn trước (T) và hiện nay (P)
(Ảnh : DR)
Và
khi đá trở thành đảo, thì luật quốc tế cho cái gì ? Trên nguyên tắc,
người ta có thể có 200 dặm kể từ đường biên của nó ra ngoài khơi, thậm
chí có thể có nhiều hơn nếu có thêm thềm lục điạ, đến trên 300 dặm. Như
vậy làm vấn đề phức tạp thêm lên.
Theo đúng luật quốc tế, theo
tôi, tất cả các hòn đảo ở trong vùng chỉ là đá mà thôi thôi. Có nghiã
là các nước nếu có chủ quyền trên những hòn đá đó, thì cũng chỉ được 12
dặm chung quanh mà thôi. Như vậy, phần còn lại của Biển Đông sẽ là biển
quốc tế, nơi mọi người có quyền tự do đi lại. và nếu khai thác tài sản
dưới đáy biển, thì phải chia sẻ với nhau, thay vì tranh giành, dùng
quyền lực để mà chiếm đoạt như hiện nay.
Đây là điểm quan trọng
trong luật biển của Liên Hiệp Quốc, mà cho đến bây giờ ít có nhà nghiên
cứu để ý tới, và nếu muốn giải quyết hoà bình, thì tôi nghĩ đây cũng là
việc cũng cần thảo luận để giảm thiểu phần đấu tranh, tranh giành nhau
quyền lợi chung quanh các hòn đảo, vì nếu được hòn đảo, thì cũng chỉ
được 12 dặm chung quanh mà thôi, phần còn lại là biển.
Tính chất vô lý trong yêu sách về đường chữ U của Trung Quốc
Trung
Quốc chỉ vẽ ra tấm bản đồ này từ năm 1947. Mà trong lịch sử, từ xưa đến
giờ họ có bao giờ kiẻm soát được Biển Đông hay là cố gắng kiểm soát
Biển Đông đâu ! Muốn gọi là biển lịch sử thì phải có sự kiểm soát từ
xưa đến giờ, có nghiã là mọi người đi qua Biển Đông thì phải nộp thuế
cho Trung Quốc, phải xin phép Trung Quốc, v.v..
Cũng giống như
là nếu có một con sông nối liền từ Việt Nam sang Kampuchea, nếu
Kampuchea muốn đem hàng hóa ra biển qua con sông Việt Nam, thì phải nộp
thuế, phải xin phép. Điều này Trung Quốc chưa bao giờ làm được đối với
Biển Đông. Do đó từ xưa đến giờ, chưa bao giờ đó là hải phận của Trung
Quốc.
Dĩ nhiên ta có thể đem hồ sơ ra toà án quốc tế. Từ xưa
đến giờ sau nhiều lần tranh chấp với Pháp, thờI họ còn cai trị Việt
Nam, Pháp đã hai lần yêu cầu cùng với Trung Quốc ra toà án quốc tế
để giải quyết vấn đề tranh chấp thì Trung Quốc đều từ chối. Điều này có
nghiã là trong tương lai, Trung Quốc cũng sẽ từ chối thôi. Vì nếu mà
đưa thì chắc chắn là họ thua. Thế thì về cơ bản là họ sẽ dùng quyền lực
về quân sự và trong tương lai là cả sức mạnh về kinh tế, để có thể đòi
hỏi chủ quyền ở khu vực này.
Trước tình trạng đó, một nước như
Việt Nam, hay là một số nước chung quanh, hay là Mỹ, có thể yêu cầu toà
án quốc tế, không phải là xử lý mà là cho ý kiến về vấn đề Trung Quốc
gọI Biển Đông là biển lịch sử của họ, xem điều đó có hợp lý hay không.
Thì phải cần có một cuộc vận động trên thế giới để người ta hiểu biết
rõ vấn đề này. Các nhà luật học, các nhà nghiên cứu cũng phải nghiên
cứu kỹ xem coi vấn đề được xử lý như thế nào. Tôi thấy rằng là đây là
vấn đề quốc tế chứ không phải là vấn đề song phương.
Không nên bó khuôn trong các giải pháp song phương
Vấn
đề tranh chấp Biển Đông là tranh chấp đa phương. Mọi nước đi qua khu
vực đó chứ không phải chỉ có Việt Nam hay là Philippines... 50% hàng
hóa trên thế giới, thương mại thế giới là đi qua Biển Đông, hàng hóa
của Mỹ, của các nước Đông Nam Á, của Nhật, của Đài Loan v.v..ngay cả
của Trung Quốc cũng đi qua khu vực đó.
Nếu mà kiẻm soát được khu
vực đó, cấm mọi người đi qua, tức là có thể kiểm soát được vấn đề
thương mại của toàn khu vực. Do đó mọi người đều có cái quyền lợi ở
vùng Biển Đông, chứ không phải chỉ có người Đông Nam Á mà thôi. Đây là
vấn đề liên quan đến biển.
Thế còn những vấn đề khác, nếu mà có
cái gọi là song phương, thì tôi nghĩ là Việt Nam cùng lúc phải giải
quyết vấn đề song phương với lại Philippines. Vấn đề không phải là biển
nữa mà là liên quan đến một số hòn đảo, hoặc liên quan đến việc phân
chia như thế nào khu đặc quyền kinh tế. Đó là vấn đề tôi nghĩ Việt Nam
phải làm.
Trên vấn đề này, tôi nghĩ là Việt Nam cũng phải thay
đổi quan điểm. Hồi xưa, mình có cảm tưởng rằng Việt Nam cũng muốn là
cả Biển Đông là của mình... Bây giờ tôi có cảm tưởng họ đã thay đổi và
họ chỉ nói về đảo. Có nghiã là Việt nam đòi hỏi chủ quyền trên đảo.
Ngoài
ra thì Việt Nam cũng rất giống Trung Quốc ở chỗ là Việt Nam đòi hỏi là
trong phạm 200 dặm trong khu vực đặc quyền kinh tế, tàu bè nước ngoài
không được đi qua, mà tàu quân sự thì phải xin phép. Đấy cũng là quan
điểm của Trung Quốc. Theo tôi, khu vực Biển Đông chỉ có một vài người
nước có khả năng theo dõi vấn đề an ninh : Mỹ, Trung Quốc, và cùng lắm
là Nhật Bản.
Do đó, nếu đi theo quan điểm của Trung Quốc mà cấm
không cho tàu Mỹ đi qua đó thì tôi nghĩ là làm như vậy sẽ giúp cho
Trung Quốc hoàn toàn làm chủ cái Biển Đông rồi. Thành ra, quan điểm của
Việt Nam cho rằng tàu quân sự không được đi qua khu vực chỉ có lợi cho
Trung Quốc. Tôi cho rằng Việt Nam nên thay đổi quan điểm này.