TUYÊN NGÔN LẠC HỒNG
Nam quốc Mộc Tinh chấn Lạc Hồng
Vận thiên khí hội kiến hòa nhân
Chấn đạo quốc hưng bình thiên hạ
Ngoại quốc lân bang kính phục giao.
Trần Đông Chấn

Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát - La Meurtrissure

Search This Blog

Saturday, November 7, 2009

Cử Tri Quận 2 - Thủ Thiêm Biểu Tình

1 m2  chỉ đền  1.360.000 VNĐ = 60 USD .
 Sau đó bán lại trên 100.000.000 VNĐ/ 1M2
Tương đương 6.000 USD/1M2
Đó do tại sao dân oan thuộc dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm liên tục biểu tình trước trụ sở UBND thành phố Hồ Chí Minh số 86 , Thánh Tôn trong những ngày qua !

        Mặc phải bỏ công ăn việc làm, để đi đòi công ; đồng nghĩa với việc không đủ ăn trong ngày ! Hơn thế nữa lại còn bị lực lượng công an nhân dân , an ninh nhân dân các đầy tớ nhân dân mình phải còng lưng lao động, chắt chiu , góp nhặt từng đồng để đóng thuế nuôi lớn mạnh ! Nay lại phản chính chủ của mình, đẩy chủ nhân của mình ra khỏi nhà, nếu không tuân lệnh sẽ bị cưỡng chế ! Nếu khiếu nại gay gắt sẽ bị kết tội : Gây mất an ninh trật tự , bị kẻ xấu xúi dục kích động, chống đối đảng nhà nước, vừa bị mất nhà đất lại còn bị đi nữa !
Nhà nước biết bao nhiêu Luật , hết nghị quyết này tới nghị quyết kháctất tần tật đếu bảo vệ dân , tất tần tật đều xác định : Giải tỏa đền phải tạo cho dân cuộc sống ít nhất bằng , còn không thì phải tốt hơn nơi !
Thế nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược !
   Nhân dân trong Khu Đô Thị Mới Thủ Thiêm bị các Quyết Định 135, 143 , 123 , 06 bóc lột tới hơn 10 lần :
                        1 . Bị mất nhà và đất ! Không còn chỗ ở ! 
                        2 . Bóc lột về nguồn gốc sử dụng đất . 
                        3 . Bóc lột về giá cả . Bị biến thành con nợ !
                        4 vaø 5  Chung cư chất lượng  thấp , giá laị quá cao …
                 6. Khiếu nại thì bị cho là chống đối !
                 7 . Bị ép buộc viêt giấy : Cam kết tự nguyện di dời !
                 8. Bóc lột diện tích .
                 9. Bóc lột tinh thân
                 10. Bóc lột quyền lợi do Luật pháp qui định ,,,
Ai là người giúp đỡ cho dân oan ? Ai là người giải quyết đúng pháp luật cho dân oan ?
Vì chính quyền lã biến thành nhà đầu tư, chủ dự án, vừa làm ra luật, vùa giải quyết khiếu nại, vừa đá bóng vừa thổi còi thì dân oan mỗi ngày một nhiều , mỗi ngày mỗi đông và ngày càng lớn mạnh thêm thì chuyện gì đến ắt sẽ phải đến .
                                                        Xin gởi kèm Video Biểu tình                                                                                        
                                                                      Cử tri quận 2








ĐỀN BÙ 1M2  = 1.360.000 đồng

KHU ĐTM THỦ THIÊM QUẬN 2

SAU ĐÓ BÁN 1 M 2  :

TRÊN 100.000.000 đồng/ 1 M 2


DÂN MẤT NHÀ ĐẤT !


LỢI NHUẬN VÔ TÚI AI ?

Đại lộ Đông - Tây: Thiết kế đô thị vẫn chạy sau

Trong khi các cơ quan quản lý vẫn đang loay hoay nghiên cứu quy định về thiết kế đô thị cho các ô phố dọc theo đại lộ Đông - Tây, thì tình trạng xây dựng, cải tạo, chỉnh trang nhà cửa theo thiết kế "mỗi nhà mỗi kiểu" đã và đang diễn ra ngày một nhiều.

Một ngôi nhà "quái dị" xuất hiện trên đại lộ Đông - Tây - Ảnh: Trần Phan

Sự chậm trễ của cơ quan chức năng trong việc thiết kế đô thị khiến trục đường đẹp thuộc bậc nhất của TP.HCM như khoác trên mình chiếc áo đầy chắp vá.

Thiết kế mỗi nhà mỗi kiểu

Với chiều dài hơn 21km đi qua địa bàn 8 quận - huyện, trong đó khoảng 13km chạy dọc theo kênh Bến Nghé - Tàu Hủ, với chiều rộng 6-10 làn xe, đại lộ Đông - Tây được xem như một điểm nhấn cho đô thị TP.HCM. Ngoài vị trí lý tưởng với không gian thoáng đãng, gắn liền cảnh quan sông nước, trục đường này còn có ý nghĩa quan trọng kết nối với tuyến cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây (phía đông) và tuyến cao tốc TP.HCM - Trung Lương (phía tây).

Do đó, sau khi hoàn thành, đại lộ Đông - Tây được đánh giá là tuyến đường đô thị thuộc hạng đẹp nhất của TP.HCM. Con đường đẹp và giá trị là vậy, thế nhưng điều đáng buồn là kiến trúc đô thị dọc trục đường này hết sức nham nhở, chẳng khác nào cô gái đẹp khoác trên mình chiếc áo đầy mảnh vá.

Ghi nhận của phóng viên trên đoạn đường dài hơn 13km (thông xe giai đoạn 1 vào đầu tháng 9), tình trạng xây dựng mới, cải tạo, chỉnh trang nhà cửa diễn ra ngày càng rầm rộ. Đáng nói, việc xây dựng nhà dọc tuyến không theo một quy hoạch kiến trúc đô thị xứng tầm, thay vào đó là những kiểu kiến trúc "mạnh ai nấy làm".

Hàng loạt ngôi nhà với vô số kiểu kiến trúc, nằm trộn lẫn vào nhau một cách hỗn tạp. Tranh thủ những khoảnh đất còn lại sau giải toả, những ngôi nhà mỏng dính, cao nghều cũng mọc xen kẽ những ô nhà phố... 

Thiết kế đô thị vẫn chạy sau

Dự án đại lộ Đông - Tây bắt đầu khởi công xây dựng từ năm 2005, nhưng mãi đến khoảng giữa năm 2009, UBND TP.HCM mới giao cho Sở Quy hoạch - Kiến trúc cùng các ban, ngành nghiên cứu quy định về thiết kế đô thị các ô phố dọc đại lộ Đông - Tây. Xung quanh quy định thiết kế đô thị nào cho đại lộ Đông - Tây, đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nên chưa biết đến bao giờ mới ban hành thành quy định chung, trong khi người dân thì không thể chờ.

Theo các hộ dân dọc đại lộ Đông - Tây, để đảm bảo tiến độ thi công, người dân được yêu cầu phải bàn giao mặt bằng sớm. Và sau khi tháo dỡ nhà, người dân không thể căng màn sống tạm bợ chờ đến khi nào các cơ quan chức năng ban hành quy định về thiết kế đô thị mới được xây dựng, cải tạo nhà.

Theo bà Huỳnh Thị Thảo - Phó Chủ tịch UBND Q.5 (địa phương có hơn 4km đại lộ Đông - Tây đi qua), sau khi giải toả đền bù, quận đã nghiên cứu đề xuất quy hoạch thiết kế đô thị riêng đoạn đại lộ đi qua địa bàn quận, trình Sở Quy hoạch - Kiến trúc.

Tuy nhiên, sau đó do thành phố yêu cầu làm chung cho toàn tuyến, nên quận vẫn phải chờ Sở Quy hoạch - Kiến trúc chỉnh sửa, ráp chung với quy định toàn tuyến. "Hiện nay, người dân có nhu cầu xây mới, sửa chữa lại nhà cửa, quận vẫn cấp phép bình thường, chứ không thể bắt người dân chờ. Còn khi nào thành phố có ban hành quy định về thiết kế đô thị thì lúc đó mới áp dụng" - bà Thảo cho biết.

Nhiều người lo ngại, đến khi thành phố ban hành được quy định chung về thiết kế đô thị cho đại lộ Đông - Tây thì có lẽ cũng chẳng sử dụng được bao nhiêu, bởi khi ấy nhà cửa dọc tuyến đường này đã xây dựng chật kín.

Theo Lao Động

Trường đòi sinh viên 'ai mua đề, giơ tay lên'

Cập nhật lúc 16:52, Thứ Bảy, 07/11/2009 (GMT+7)

- 'Ai đã mua đề, giơ tay lên? Ai cho rằng đề thi không bị lộ, giơ tay lên? Nhà trường mong các em hợp tác để tìm ra sự thật'.

Đó là những câu hỏi do ông Nguyễn Mạnh Hùng, Hiệu trưởng Trường CĐ Nguyễn Tất Thành nêu ra cho sinh viên (SV) trong cuộc gặp gỡ với sinh viên khóa 2005 - 2008 và khóa 2006 - 2009 sáng ngày 7/11. 

Trước đó, báo VietNamNet đã phản ánh tình trạng có dấu hiệu lộ đề và đề thi được bán với giá 50 triệu đồng cho SV.

Những câu hỏi khó hiểu

Cuộc gặp gỡ bao gồm SV dự thi tốt nghiệp ngày 20/9 vừa qua của lớp Qt1, Qt2, Qt3 của khóa 2005 - 2008 và lớp Qt1, Qt2 của khóa 2006 - 2009. Tuy nhiên, tổng số SV của 5 lớp là 241 em thì chỉ có khoảng 125 SV tham dự.

Nhiều SV trầm ngâm sau câu hỏi: "Ai đã mua đề?" của thầy hiệu trưởng. Ảnh: Minh Quyên.
Một SV của lớp Qt1, khóa 2005 - 2008 dẫn ra những điều làm SV này nghi ngờ có chuyện lộ đề: "Sau khi thi xong, em hỏi một bạn cùng phòng về đáp án đề thi, bạn bảo không nhớ, không cần hiểu; Một bạn khác thì cho xem mẩu giấy có giải rõ ràng những câu có trong đề thi; Bạn thứ 3 lại có sẵn bài tập trong lòng bàn tay".

Cũng theo lời SV này, trong phòng thi, có những bạn không cần mang theo máy tính nhưng vẫn làm được bài thi trong khi bài tập gần như phải tính toán. 

SV này chia sẻ: "hơn 1 năm trời với 3 lần đi thi chưa một lần đậu. Trong khi 3 lần thi đó chưa bao giờ tôi nghĩ mình lại rớt".

Nhà trường vẫn không chú ý đến những cánh tay không đưa hoặc đưa rụt rè của SV khi hỏi ""Ai cho rằng đề thi không bị lộ thì giơ tay lên?" . Ảnh: Minh Quyên
Sau những chia sẻ của SV này, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Hiệu trưởng trường đưa ra câu hỏi cho cả hội trường: "Ai đã mua đề, giơ tay lên?". Cả hội trường không thấy cánh tay nào.

Một số SV thì thầm với nhau "Nói vậy thì ai mà giơ tay". Một SV lớp Qt3, khóa 2005 - 2008 buột miệng: "Có khi những người mua đề lại không dám đến đây vì cảm giác tội lỗi".

Sau đó, ông Bùi Xuân Lâm, Phó hiệu trưởng trường hỏi tiếp: "Ai cho rằng đề thi không bị lộ thì giơ tay lên?" Khác hẳn lúc đầu, hàng loạt cánh tay đưa lên, chiếm đa số trong hội trường. Tuy nhiên, số SV không đưa tay vẫn không được nhà trường chú ý để tìm hiểu nguyên nhân.

Trước đó, ông Hùng có cho biết sẽ xử lí nghiêm, thậm chí là xử lí hình sự đối với những người liên quan việc mua bán đề thi.

Người đậu nói đề không lộ, kẻ rớt nghi đề bị lộ

Khi buổi gặp gỡ bắt đầu, ông Hùng và ông Lâm đề nghị SV hợp tác cùng nhà trường để làm rõ vụ việc. Ông Hùng còn khẳng định tìm quyết liệt để làm rõ vụ việc. Nhưng sau khi nghe những tâm sự của một SV về việc nghi ngờ đề bị lộ, nhà trường đề nghị nghe lời của SV khác cho rằng đề không bị lộ.

Nhiều SV xung phong phát biểu. Và hầu hết trong số họ đều cho rằng đề không bị lộ và những SV này cũng là những người đã vượt qua kì thi đợt 3 vừa qua.

SV đưa ra ý kiến tại buổi gặp gỡ. Ảnh: Minh Quyên
"Tôi là một SV học khá, được nhiều học bổng của trường khi còn đi học. Kì thi lần thứ 3 tôi được 6,5 điểm. Tôi khẳng định không thể có chuyện đề thi tốt nghiệp bị lộ" - Quân, SV lớp QT2, khóa 2005 - 2008 đã nhấn mạnh như vậy.

Thế nhưng, trong phát biểu của mình, Quân cũng cho biết khi đi học cậu chỉ thi rớt một lần và đến khi thi tốt nghiệp thì lại rớt đến 2 lần. Cậu còn nói thêm, kì thi lần thứ 2 vẫn tưởng được 8 - 9 điểm nhưng vẫn rớt. Có lẽ, lần thi thứ 3 cậu phải tự tính điểm cho mình ít nhất 10 điểm(?)

Cùng với Quân, nhiều SV khác đã thi đậu đều cho rằng, đề thi không bị lộ và không cần phải cho thi lại lần nữa. Quân đưa ra lí do: "Nếu cho thi lại nữa, chúng em vừa tốn công, tốn tiền, tốn thời gian mà lỡ rớt thì sao!".

"Nếu bạn thực sự có khả năng, có thi lần nữa, bạn vẫn có thể thi đậu" - Một SV lớp Qt1 chất vấn lại sau khi Quân phát biểu.

Một SV cũng thi rớt của lớp Qt3 cho rằng, nếu cho thi lại, quả thật sẽ thiếu công bằng với những SV đã thi đậu bằng chính thực lực của mình.

Tình, SV đã thi đậu, lớp Qt2, khóa 2005 - 2008 cho biết trong đề thi vừa rồi, kiến thức bài số 1 đến bài số 3 đều đã được thầy cô cho ôn. Tình nói: "Không biết đề thi có bị lộ hay không, nhưng vì đề ra đều có trong tài liệu đã học trong quá trình học nên chỉ cần học bài là thi qua".

Rồi SV của lớp Qt1, khóa 2006 - 2009 cũng nhấn mạnh đề này dễ, nếu chịu học cũng sẽ đậu. Nếu nói như vậy thì trong kì thi vừa rồi khóa 2005 - 2008 chỉ có 61/132 SV và khóa 2006 - 2009 chỉ có 49/106 SV chịu học.

Được biết, trước khi buổi gặp gỡ diễn ra, trường đã gọi điện đến cho từng SV. Tuy nhiên, có một số SV thi rớt lại cho rằng mình không nhận được điện thoại từ trường mặc dù số điện thoại không thay đổi(?). Các SV này biết được cuộc họp thông qua những người bạn đã thi đậu.

Cuối buổi gặp gỡ SV, trường yêu cầu SV ghi phiếu trắc nghiệm xem có phát hiện việc lộ đề hay không nhưng nhà trường chỉ thu lại được 85 phiếu. Có nhiều ý kiến của SV cho rằng không dám ghi vì trên phiếu yêu cầu ghi đầy đủ họ tên, số điện thoại.

Một thành viên của Hội đồng quản trị (không nêu tên) của trường nhận định: Có thể việc lộ đề, mua bán đề thi chỉ diễn ra trong một nhóm rất nhỏ mà thôi.

  • Minh Quyên

“Kho sổ đỏ” lạc ra vựa ve chai

26 giấy đỏ cùng hàng chục giấy trắng có tên, diện tích sử dụng lên tới hàng chục ngàn mét vuông đất được một cháu bé phát hiện tại vựa ve chai.


 
Giấy đỏ "đi lạc"

 

Tháng 3/2008, cháu Lê Anh D. (10 tuổi), con của chủ vựa ve chai Long Hiền (thôn Lập Nghĩa, thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận) lục tìm truyện tranh cũ trong đống đồng nát của mẹ. Bất ngờ cháu phát hiện cả một "kho" với 26 giấy đỏ và hàng chục giấy trắng sắp xếp gọn gàng trong một thùng giấy.

 

Không tìm được truyện tranh mà vớ được thứ "vớ vẩn", D. bực mình xé bỏ hai giấy đỏ rồi mới báo cho mẹ biết. Chị H., chủ vựa ve chai, tá hỏa khi thấy 24 giấy đỏ ký tên, đóng dấu hẳn hoi, có cùng ngày cấp là 19/11/2006 với số diện tích đất trong sổ lên đến hàng chục ngàn mét vuông.

 

Toàn bộ giấy đỏ ghi tên những người dân ở khu phố Lập Vinh, thị trấn Thuận Nam, Bình Thuận. Ngoài ra còn có hàng chục giấy trắng đã có tên, địa chỉ, diện tích sử dụng nhưng chưa ký tên, đóng dấu.

 

Theo chủ vựa ve chai, chị không phải người đi thu mua ve chai dạo và chị cũng không biết bạn hàng nào đã bán số giấy trên cho vựa của mình. Khi thấy 24 chứng thư quan trọng về đất đai, chị đã mang nó giao lại cho bà Võ Thị Phương Thu, cán bộ Hội Phụ nữ thị trấn Thuận Nam để bà Thu giao lại cho những người có trách nhiệm.

 

Theo bà Thu, nhận số giấy đỏ trên từ người chủ vựa ve chai, bà cũng không tin nổi vào mắt mình vì chứng thư đất đai của người dân với giá trị rất lớn lại được quản lý lỏng lẻo không hiểu nổi. Lập tức bà Thu tìm gặp ông Nguyễn Đăng Vũ, cán bộ phụ trách địa chính thị trấn gặng hỏi thì ông Vũ khẳng định không hề biết về số giấy đỏ trên vì nó được Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện quản lý.

 

Vài ngày sau, ông Trần Ngọc Diệp, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện, đến nhà bà Thu xin lại. Bà Thu yêu cầu ông Diệp viết biên nhận, đồng thời làm rõ vì sao giấy đỏ lại lưu lạc như thế và có thông báo để bà báo lại cho bà chủ vựa ve chai.

 

Ký ba năm vẫn chưa cấp cho dân

 

Theo bà Thu, từ lúc Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện nhận lại giấy (31/5/2008) đến hết năm 2008, bà không hề nhận được chút thông tin nào về "số phận" của những giấy đỏ trên.

 

Chờ hoài không thấy trả lời, trong kỳ họp HĐND thị trấn, bà Thu quyết định công khai thông tin vụ "Kho giấy đỏ trong vựa ve chai". Sự việc vỡ lở, Công an thị trấn Thuận Nam đã mời bà và người chủ vựa ve chai đến làm việc. Thế nhưng từ đó đến nay bà vẫn không hề nhận được thông tin về những chiếc giấy đỏ trên đã đến được tay những chủ nhân của chúng chưa.

 

Mới đây, chúng tôi tìm gặp bà Nguyễn Thị Mỹ H., ngụ khu phố Lập Vinh, người có đến bảy giấy đỏ có tên trong danh dách 24 giấy nêu trên. Sau khi nghe chúng tôi báo về bảy chiếc giấy đỏ của bà từng nằm trong vựa ve chai, bà H. muốn té khụy.

 

Theo bà H., năm 2005, gia đình bà được cán bộ địa chính huyện và thị trấn yêu cầu xác định các thửa đất của gia đình để đo đạc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Và đến nay gia đình bà chưa hề nhận được thông báo hay giấy mời nào liên quan đến những chiếc giấy đỏ của mình.

 

Số giấy đỏ nêu trên đã được ký tên, đóng dấu từ tháng 11/2006, sau khi "phiêu lưu" vào vựa ve chai rồi quay trở lại Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện đã đúng ba năm nhưng người dân vẫn chưa nhận được. Đây là điều rất khó hiểu!

 

Ông Nguyễn Đăng Vũ, cán bộ địa chính thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam: Tôi lo nên... giấu luôn

 

Số giấy đỏ trên là do tôi đánh rơi khi mang về nhà. Sở dĩ có chuyện này là khi mời dân đến nhận giấy đỏ, vẫn có một số người không đến nhận. Vì thế sau khi xem lại danh sách 26 giấy đỏ còn lại thì thấy đều là người dân ngụ ở khu phố Lập Vinh sống cạnh nhà tôi nên cán bộ phòng nhờ tôi mang về cấp giúp cho dân.

 

Ngoài 26 giấy đỏ còn có bao nhiêu giấy trắng ông xếp trong thùng giấy chở về nhà "bị rơi"?

 

Tôi không xếp trong thùng giấy, số giấy đỏ tôi kẹp trong bìa hồ sơ rồi bị rơi, còn giấy trắng tôi hoàn toàn không biết.

 

Khi mang giấy về nhà, ông có làm biên lai, biên nhận gì không?

 

Tôi chỉ nhận về theo đề nghị của cán bộ phòng, không có biên lai, biên nhận gì.

 

Sau khi làm mất, ông có báo với người có thẩm quyền?

 

Tôi biết việc không làm biên nhận mà mang giấy về nhà là trái quy định. Vì thế sau khi đánh mất, tôi lo quá nên... giấu luôn!

 

Xin lỗi, có người nghi ngờ ông nhiệt tình mang giấy về nhà để người dân "biết điều" khi nhận nó?

 

Tôi khẳng định là không có chuyện đó.

 

Trước đây ông nói với bà Thu là không biết số giấy đỏ vì Phòng Tài nguyên và Môi trường quản lý nó, sao giờ ông lại nhận là mình đánh rơi?

 

Tôi nói rồi, lúc ấy tôi sợ nên giấu. Giờ chuyện vỡ lở tôi phải nhận thôi.

 

Theo Phương Nam - Hồ Sỹ

Pháp Luật TPHCM

Những Giai Thoại Về HCM

“Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia”

Trần Quốc Vượng


“… câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết. Chỉ là lời truyền miệng dân gian …phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta SỢ.…

… Đến đây tôi sẽ khép (lại) bài kể lể đã khá dài dòng của mình bằng câu chuyện một người tuy có tên tưổi nhưng không lấy gì làm nổi tiếng lắm, hay đúng hơn cả là đã trở nên có tên tuổi nhờ gắn bó máu thịt với một người có tên tuổi (nhưng từ đầu đến cuối câu chuyện của tôi đều nói về các nhà Nho, các vị thái học sinh, tiến sĩ, bảng nhãn hay là phó bảng cả).

Đó là câu chuyện về cụ thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy.

Phó bảng là một học vị dưới tiến sĩ, chĩ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1830-31).

Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp gởi Bộ Thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất Thành (sau là Hồ Chí Minh) đã khéo dịch tên học vị của phụ thân mình là sous docteur [1] như ngày nay ta gọi là phó tiến sĩ.

Quê hương cụ, là làng Kim Liên, tên Nôm là làng Sen huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu phó bảng rồi cụ đã làm Thừa biện Bộ Lễ ở Huế rồi Tri huyện Bình Khê (Bình Định). Rồi bỏ quan (hay bị mất chức quan), cụ phiêu dạt về Sài Gòn, ngồi bắt mạch kê đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều, để có chút cơm rượu... Lại phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng mất ở Cao Lãnh (Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Mộ cụ phó bảng được xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Genève tạm thời chia đôi đất nước Việt Nam.

Người ta làm như thế vì cụ Hồ. Cũng như mộ bà Hoàng Thị Loan vợ cụ phó bảng và là thân mẫu Hồ Chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở Nam Đàn, Nghệ An. Người ta làm thế cũng vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này, cũng như bản thân Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lòng Ba Đình, Hà Nội, đều hiện hữu ngoài ý thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là người giản dị, khiêm nhường...

Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.

Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là lan truyền thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta SỢ.

Sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn truyện bằng tiếng Anh Life and Death in Shanghai, [2] đã được dịch ra tiếng Việt: Ở xã hội xã hội chủ nghĩa, cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".

Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.

Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của dòng họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho, cử nhân Hồ Sĩ Tạo.

Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu về lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thai Mai, người một thời làm Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ của cụ Hồ 45-46 rồi làm Viện trưởng Viện trưởng Viện Văn học, là Hồ Thị Loan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".

Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc. Như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc ngâm chinh phụ: "Hồng nhan đa truân" (Gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên). Hay như Nguyễn Du than thở giùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều: "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", "Rằng hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu").

Và ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài").

Cô Đèn, Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài ggái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...

Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai là Nguyễn Sinh Thuyết, và người con trai này cũng đã có vợ).

Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này, như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ, mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".

Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu vợ anh Thuyết, vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.

Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": Người con trai này - được ông nhận làm con, lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).

Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".

Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.

May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng, Hoàng Thị Loan, mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ăn ở riêng.

Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ, làng Chùa, hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi là ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê mẹ hay là quê ngoại. Khi cụ Tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.

Qua giỗ đầu cụ Tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.

Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo, người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc, với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự can thiệp của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.

Ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày sau) trở thành con trai út.

Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc giùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng. Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội, dù là quê nội danh nghĩa, tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.

Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn (Hồ Chí Minh ngày sau) về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.

Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô nhận chức quan (1904) ở Bộ Lễ, đem theo hai con trai vô Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi Tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sài Gòn rồi Lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa...

Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.

Người ta bảo lúc sau, khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.

Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gặn làng Sen! Hay là sau đó nữa chả lẽ không khi nào cụ phó bảng Huy hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích thân phụ mình?

Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này... Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa. Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người dân quê, lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.

Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ, tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ, đã trở thành "huyền thoại". Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần gụi cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa.

Ngay sau Cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi) về sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp Cách mạng tháng Tám. Và sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý không ưa gì cụ Hồ... Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.

Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.

Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh, tỉnh lỵ Nghệ An, cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội"! [3]

Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?

Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê. [4]

Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý". (Viết không [bao giờ] hết lời nói, Lời nói không [bao giờ] hết ý!)

'Ai sẽ sốc ở đây?'

Chủ nhiệm UB Kinh tế Hà Văn Hiền:

Cập nhật lúc 20:47, Thứ Năm, 05/11/2009 (GMT+7)

 - Quốc hội sẽ thông qua Nghị quyết kinh tế - xã hội năm 2010 vào ngày mai (6/11), nhưng xung quanh việc kéo dài gói hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp đến hết quý I/2010, ĐBQH vẫn còn có ý kiến khác nhau.

Trao đổi với Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế QH Hà Văn Hiền.

Không kéo dài

Mô tả ảnh.

Ông Hà Văn Hiền: Chúng ta chưa nhiều tiền đến mức có thể cho vay thoải mái mà chưa thấy hiệu quả. Ảnh: VNN

Ủy ban kinh tế từ đầu kỳ họp đã kiến nghị nên dừng hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp đúng thời điểm vì nếu kéo dài sẽ gây nhiều hệ lụy. Nhưng vừa qua, Chính phủ đã thống nhất sẽ kéo dài chính sách này, vậy quan điểm của Ủy ban đến nay như thế nào?

- Chính sách kích thích kinh tế năm 2009 là hợp lý, vì năm 2008 đã trải qua thời điểm lạm phát cao, Chính phủ hỗ trợ để giúp doanh nghiệp khắc phục khó khăn.

Nhưng chỉ có 20% DN được nhận hỗ trợ, gây ra sự bất bình đẳng trên một sân chơi chung. Thực tế, việc kiểm soát vốn hỗ trợ lãi suất là khó khăn, dòng tiền có được đưa vào sản xuất hay để làm việc khác, vào chứng khoán, bất động sản?

Từ những phân tích trên, Ủy ban Kinh tế mới kiến nghị năm 2009 chấm dứt gói hỗ trợ lãi suất 4% đúng thời hạn.

Còn ai đó sợ rằng chấm dứt đột ngột khiến DN bị sốc, hẫng, thì phải nói là, chính sách hỗ trợ của Chính phủ đưa ra từ ngày 1/1/2009, ngay lúc đó đã xác định thời điểm dừng lại.

Cả người vay và cho vay đều đã có kế hoạch sử dụng đồng vốn, vì vậy không thể nói là bị sốc được.

Nếu tiếp tục kéo dài chính sách hỗ trợ này sang đến hết quý I thì liệu là 20% số DN trước đây được vay bây giờ có vay tiếp nữa không, hay để cho DN vay mới?

Vậy, ai bị sốc, bị hẫng hụt ở đây?

Theo tính toán của chúng tôi, nếu giảm hỗ trợ xuống còn 2% thì cũng không đáng kể, vì chi phí, thời gian để làm thủ tục vay được vốn cũng tốn kém rất nhiều. Tác dụng thực tế, hiệu quả thực tế không cao

Vì vậy chúng tôi vẫn tiếp tục kiên trì quan điểm không nên tiếp tục kéo dài gói hỗ trợ lãi suất cho các DN thêm một quý nữa làm gì.

Ngày mai, Quốc hội sẽ thông qua Nghị quyết về kinh tế - xã hội, vậy các thay đổi này đã được Chính phủ báo cáo với Quốc hội để đại biểu nghiên cứu và bày tỏ quan điểm chưa?

- Trong Nghị quyết cũng không nói đến mức chi tiết như vậy mà Nghị quyết sẽ chỉ nói chung là tiếp tục các gói kích thích kinh tế, tập trung vào các gói ngắn hạn và dài hạn, thế thôi.

Theo Phó Chủ nhiệm UB Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng QH Nguyễn Minh Thuyết, những việc như thế này, theo tôi, tốt nhất nên báo cáo trước Quốc hội, không phải để Quốc hội quyết định vì nó thuộc quyền điều hành của Chính phủ, mà báo cáo Quốc hội để tạo sự đồng thuận.
Nhưng Quốc hội cũng cần phải  làm rõ vấn đề nguồn tiền lấy từ đâu ra? Vì khi thảo luận về kinh tế - xã hội, không ít ĐBQH thắc mắc là gói kích cầu hồi đầu năm đã không thông qua Quốc hội?

- Theo một số lời giải thích thì vẫn còn tiền từ năm 2009, khoảng 8.000 tỷ chưa giải ngân hết. Nhưng quan điểm của Ủy ban là phải dùng tiền thế nào cho phù hợp nhất.

Vậy theo tôi, nguồn tiền còn lại nên tập trung cho trung hạn và dài hạn để phục vụ cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, cho việc tái cấu trúc.

Chúng ta chưa nhiều tiền đến mức có thể cho vay thoải mái mà chưa thấy hiệu quả.

Tất cả sẽ nằm trong cân đối ngân sách năm 2010. Chắc chắn Chính phủ sẽ  báo cáo ra Quốc hội.

Chờ đợi

Vậy nhưng Ủy ban có chủ động yêu cầu Chính phủ phải làm rõ những vấn đề này không?

- Phải chờ đợi thôi.

Trong phiên chất vấn sắp tới, chắc chắn ĐBQH sẽ chất vấn Chính phủ.

Đến lúc này, Ủy ban Kinh tế cũng chưa nhận được văn bản hay báo cáo chính thức nào của Chính phủ về chủ trương kéo dài hỗ trợ lãi suất.

Thông tin có được hoàn toàn qua báo chí. Quốc hội sẽ chờ xem Chính phủ quyết thế nào.

Việc tiếp tục chính sách kích thích kinh tế liệu có ảnh hưởng gì tới các chỉ tiêu kinh tế - xã hội như lạm phát, bội chi... mà Chính phủ dự kiến từ đầu kỳ họp và được Quốc hội thảo luận trong nhiều ngày qua không?

- Tất nhiên là Chính phủ sẽ phải cân đối các nguồn thu và nguồn chi để xem các chỉ tiêu thay đổi thế nào.

Ngày mai, khi Quốc hội đã quyết định thông qua các chỉ tiêu thì Chính phủ sẽ phải cân đối  lại các chỉ tiêu đó.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách QH Phùng Quốc Hiển:

Việc quyết định hỗ trợ lãi suất theo quy định là thẩm quyền của Chính phủ.

Chính phủ đã gửi QH một báo cáo đánh giá tình hình kích thích kinh tế từ 2008 đến nay. Những vấn đề nào thuộc thẩm quyền QH thì QH có ý kiến như thu chi ngân sách, còn thẩm quyền của Chính phủ thì Chính phủ quyết.

Tôi cho rằng việc kéo dài hỗ trợ lãi suất cũng có tác động tâm lý tích cực là không làm DN bất ngờ, kéo dài đến hết quý I cũng không phải quá dài.

Quan trọng nhất hiện nay là phải đúng đối tượng, cải cách được thủ tục để tiếp cận dễ hơn, không bị ách tắc vì thủ tục hành chính.

  • Lê Nhung

Các dự án trọng điểm quốc gia đều cần tăng tiền

Cập nhật lúc 12:57, Thứ Sáu, 06/11/2009 (GMT+7)
,

 - Điểm chung của các công trình trọng điểm như lọc dầu Dung Quất, đường Hồ Chí Minh, thủy điện Sơn La.. là đều phải tăng mức đầu tư so với dự kiến.

Sáng nay (6/11), Quốc hội đã nghe báo cáo về các công trình trọng điểm quốc gia này.

"Chưa đúng tiến độ"

Mô tả ảnh.
Sạt lở sau bão trên đường Hồ Chí Minh đoạn qua Kon Tum - Quảng Nam. Ảnh: Vân Anh
Theo báo cáo của Chính phủ, hầu hết các công trình đều không thể thực hiện đúng tiến độ.

Chẳng hạn, theo Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, tính đến ngày 15/8/2009, công trình nhà máy lọc dầu Dung Quất đã cơ bản hoàn thành, hầu hết các phân xưởng công nghệ đã hoạt động trên 70% công suất.

Nhưng do một vài sự cố kỹ thuật và ảnh hưởng cơn bão số 9 nên thời điểm bàn giao nhà máy (25/10) sẽ phải lùi lại hai tháng. Dự kiến cuối năm nay hoặc tháng 1/2010, nhà máy sẽ được bàn giao.

Chủ nhiệm UB Khoa học, Công nghệ và Môi trường Đặng Vũ Minh đề xuất, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cần tổng kết, rút kinh nghiệm trong xây dựng nhà máy lọc dầu dể phục vụ cho việc chuẩn bị xây dựng hai nhà máy khác ở Thanh Hóa và Vũng Tàu.

Với dự án đường Hồ Chí Minh, theo kết quả thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ, Môi trường QH, vẫn còn nhiều bất cập.

Chẳng hạn, việc lập kế hoạch, thẩm định và phê duyệt quy hoạch với một số hạng mục còn chậm ảnh hưởng tiến độ thi công.

Việc gắn kết giữa xây dựng đường Hồ Chí Minh với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và mạng lưới giao thông chưa được thực hiện thống nhất giữa các địa phương có tuyến đường đi qua.

Đến nay, các quy hoạch như quy hoạch chi tiết tuyến chính, quy hoạch hệ thống đường ngang, đường gom... từ đường Hồ Chí Minh xuống quốc lộ 1A chưa được phê duyệt, các điểm nghỉ, điểm cung cấp dịch vụ dọc tuyến đường còn thiếu nên mật độ xe đi lại còn ít.

Dự án đã bước vào giai đoạn 2 nhưng mới chỉ có 1 dự án hoàn thành, 18 dự án khác phải kéo dài tiến độ và 11 dự án sẽ kết thúc trong năm tới.

Như vậy, dự án sẽ không thể hoàn thành đúng tiến độ. Kế hoạch nâng cấp đường Hồ Chí Minh đạt tiêu chuẩn đường cao tốc giai đoạn 2010 - 2020 sẽ không thể thực hiện được.

Riêng việc thực hiện dự án thủy điện Sơn La là đúng tiến độ, công tác di dân có kết quả...

Dự án thủy điện Sơn La sẽ đảm bảo tiến độ tích nước vào tháng 6/2010, phát điện tổ máy số 1 vào cuối năm 2010, hoàn thành công trình vào năm 2012.

"Thêm tiền"

Điểm chung của các dự án là đều phải tăng tổng mức đầu tư so với dự kiến.

Chẳng hạn, tổng mức đầu tư của dự án lọc dầu Dung Quất là 3.054 triệu USD, tăng hơn 553 triệu so với tổng mức đầu tư dự kiến.

Với Thủy điện Sơn La, tổng dự toán tăng 39%, tương đương 14.000 tỷ đồng.

Dự án đường Hồ Chí Minh vượt 3.148 tỷ đồng so với dự tính, nâng tổng mức đầu tư lên 44.168 tỷ đồng (không bao gồm kinh phí xây dựng 436km đi trùng đã và đang được đầu tư bằng dự án khác).

Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cũng đề nghị Quốc hội cho phép Chính phủ điều chỉnh tổng mức đầu tư cho dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, có tính đến biến động trượt giá.

   Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng: "Tiến độ còn chậm"

Tiến độ khoán bảo vệ rừng và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng phòng hộ, rừng đặc dụng năm 2009 đã vượt mức kế hoạch đề ra. Nhưng tiến độ trồng mới rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất còn chậm.

Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp còn chậm. Đến tháng 8/2009, cả nước đã cấp được 1.037 nghìn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp với diện tích là 8.422 triệu ha bằng 69,2% diện tích cần giao.

Theo Nghị quyết của Quốc hội, nguồn ngân sách nhà nước cấp cho nhiệm vụ trồng mới rừng năm nay là 1.000 tỷ đồng, nhưng nếu tính toán nhu cầu vốn đầu tư trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và giá cả đầu vào thì nguồn vốn đầu tư khoảng 2.000 tỷ đồng. 

                        Nguồn: Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường QH

  • Lê Nhung

,

Đường Hồ Chí Minh sau bão lũ: Khi đường “giải cứu” kêu cứu!

Thứ Bảy, 07/11/2009, 03:11 (GMT+7)

TTCT - Là tuyến đường chiến lược gánh trọng trách "giải cứu" trong trường hợp quốc lộ 1A bị cắt đứt do mưa lũ, thế nhưng hơn sáu năm kể từ ngày đưa vào sử dụng, tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua miền Trung luôn rơi vào tình trạng sạt lở, ách tắc triền miên. Sau trận bão số 9 vừa qua, chúng tôi ghi nhận thực tế còn tệ hại hơn.

>> Tạm cấm xe tải nặng lưu thông trên đường Hồ Chí Minh

Đường Hồ Chí Minh đoạn qua địa phận huyện Đak Glei (Kontum) vốn được xem là huyết mạch nối TP Đà Nẵng với bắc Tây nguyên, nhưng xem ra lầy lội, sạt lở vẫn còn nguyên đó, 28 ngày sau bão lũ. Tại vị trí km 1425, cung đường này đang đối mặt với nạn lở núi sau một đêm mưa rừng. Từ trên cao, những thớ đất đỏ nhão nhoẹt theo đá cội và cây rừng đổ ào xuống chồng ngay lên lớp đất đá cũ trước đó một tuần.

Sạt lở chồng sạt lở

Đang lùa đàn bò lên sườn núi phía trước để gặm cỏ, người đàn ông dân tộc Giẻ Triêng xem ra tỉnh queo khi nhìn thấy cảnh núi lở ngay trước mặt. "Quen rồi, ngày nào mà chẳng vậy. Có đêm nằm ngủ nghe ầm ầm bên vách núi là biết ngay sáng mai đường tắc không đi được".

Nói rồi ông chỉ tay lên phía trên cao, nơi chỉ còn một vài cây rừng lớn trơ trọi giữa trời xanh: "Đất lở, cây đổ không sợ. Sợ nhất là đá lăn, vậy nên tránh khu vực này đi". Đúng như lời ông nói. Ngay tại khu vực đất đá vừa sạt lở, tiếng rơi lộc cộc của đá từ trên cao vọng xuống. Thi thoảng một vài viên đá cội lớn lại "xé" cây bụi lao thẳng xuống vực sâu nghe ầm ầm đến rợn người.

Chưa năm nào kể từ ngày đưa vào khai thác (2003) đến nay, cung đường Hồ Chí Minh đoạn giáp ranh nối Phước Sơn của Quảng Nam với Đăk Glei của Kontum lại bị sạt lở hư hỏng nặng đến như vậy. Tại vị trí ngã ba Đak Tạ thuộc tỉnh Kontum, trưa 28-10 chỉ có vài công nhân làm nhiệm vụ khắc phục sạt lở.

Anh Dương Quang Thắng, 35 tuổi, công nhân lái máy xúc thuộc Công ty Tân Bình, cho biết cơn bão số 9 vừa qua là nặng nhất mà anh chứng kiến trong 10 năm tham gia chống sạt: "Từ đây (ngã ba Đak Tạ) tới địa phận Mường Hon (Đak Lây) khoảng 40km, cứ 20-30m là có một vị trí sạt lở. Mấy năm trước còn đỡ chứ bây giờ mưa nhỏ cũng sạt, sạt quanh năm...".

Nguyễn Trí Thức, quê Quảng Bình, mới 19 tuổi nhưng đã có hai năm tham gia chống sạt và có chút kinh nghiệm: "Cứ mưa to quá ba ngày thì không nên đi chống sạt lở ngay. Đợt bão vừa qua mưa tới năm ngày, gió to, tụi em bị kẹt lại, không ra được". Thức kể có lần núi sạt trôi cả hai anh em công nhân và xe máy xúc đi một đoạn 20m. "May mà đất đùn lên, chứ không thì cả xe lẫn người đều xuống vực cả rồi".

Trong khi đó tại km 484 +900 đoạn từ Đông Giang đi Nam Giang (Quảng Nam), nhiều công nhân của đơn vị thi công (Công ty Lũng Lô, Bộ Quốc phòng) vẫn phải căng mình làm cho kịp tiến độ. Đang vào mùa mưa lũ nên việc thi công vô cùng khó khăn.

Chỉ cần mưa một tí là núi lở, công việc đình trệ ngay. Một công nhân đang thi công công trình gói thầu 16, hạng mục bền vững hóa đường Hồ Chí Minh cho biết gói thầu 16 là "hậu quả" để lại của mưa lũ năm 2008. Làm chưa xong thì bão lũ 2009 ập đến với mức độ tàn phá nghiêm trọng hơn, nhiều điểm sạt lở lớn xuất hiện nhiều hơn trên một cung đường.

Cầu Đăk Trát (Kontum) bị lũ cắt đứt. Tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua Kontum có nhiều đoạn lơ lửng bên mép sông Pô Kô như thế này - Ảnh: Đăng Nam

Xuất hiện gần 1.000 điểm sạt lở mới

"Muốn thấy sự tàn phá khốc liệt của cơn bão số 9 thì chỉ cần đến km 1456 đường Hồ Chí Minh đoạn qua Đak Sút, Kontum. Hơn 20 năm trong ngành quản lý giao thông, chưa khi nào tôi thấy kinh hoàng đến như vậy" - ông Thành, trưởng phòng quản lý giao thông (Khu Quản lý đường bộ 5), nói. Quả thật, "tọa độ 1456" đã bị dòng nước sông Pô Kô "gặm" hơn một nửa mặt đường trong đợt lũ cuối tháng 9 vừa qua, khiến trục đường Hồ Chí Minh đoạn qua đây trở nên mong manh bên miệng vực.

Ngay sau lũ rút, hàng trăm công nhân cầu đường của các hạt quản lý đường bộ nằm rải trên trục đường đã khẩn trương tiến hành "hàn khẩu" những điểm sạt lở nặng nhằm kịp thông xe một chiều.

Có mặt tại "tọa độ 1456", kỹ sư Lê Văn Mẫu, hạt trưởng Hạt Quản lý đường bộ Đak Tô, cho biết toàn bộ công nhân của đơn vị đã ra quân liên tục suốt một tháng qua bất kể ngày đêm để xử lý đoạn đường qua địa phận Đak Sút bị mưa lũ cuốn trôi. "Phải cần tới 600 rọ đá để kè chống sạt lở tại khu vực sông Pô Kô này" - anh Mẫu tính toán.

Chạy dọc xuống các thôn 14A, 14B của xã Đak Bết, không chỉ đường sá bị hư hại mà cả một ngôi làng của người dân tộc Giẻ Triêng cũng bị nước cuốn trôi. Một cảnh vật tang thương, xơ xác... Chúng tôi tìm mãi mới thấy một người còn sót lại trong ngôi làng. Ông A Tang kể: "Lũ cuốn trôi nhiều ngôi nhà bên sông Pô Kô, cuốn mất luôn cả xác A Bốt. Nhà A Bốt giờ chỉ còn lại cái nền nhà chìm trong bùn đất... Mọi người di tản lên huyện cả rồi. Tôi ở đây để đào bới tìm nồi niêu xoong chảo...".

Nhưng cung đường lơ lửng bên miệng vực nhất phải kể đến km 1428, nơi lũ rừng đổ về trong đêm 29-9 đã cắt đứt, xóa sổ luôn cả một đoạn đường làm giao thông tắc nghẽn nhiều ngày liền. Bên dưới vực sâu, những mảng bêtông vốn là mặt đường trước đây vẫn nằm chỏng chơ. Treo lơ lửng phía trên là hàng mấy chục thanh thép dùng làm hộ lan bị nước lũ vặn xoắn cong queo. Đây được coi là vị trí bị sạt lở nặng nhất trong đợt lũ vừa qua khiến trục đường Hồ Chí Minh đoạn qua đây bị biến dạng hoàn toàn.

Trên suốt cung đường Hồ Chí Minh dài hơn 150km từ Khâm Đức (Quảng Nam) đến Tân Cảnh (Kontum), hình ảnh chúng tôi ghi nhận là hàng loạt đoạn đường bị núi sạt lở, đất che kín mặt đường, nhiều đoạn taluy chắn đường bị gãy, cong queo, không ít cọc tiêu bằng bêtông bị gãy, thay vào đó là những... sợi dây giăng ngang chỉ cách vực thẳm 2-3 tấc.

Theo báo cáo, đợt mưa lũ vừa qua đã làm tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua miền Trung xuất hiện gần 1.000 điểm sạt lở mới, trong đó cung đường Hồ Chí Minh đi qua hai tỉnh Quảng Nam và Kontum là 370 điểm sạt lở taluy dương.

"Ước tính có không dưới 370.000m3 đất đá đã trụt lở xuống mặt đường, cống rãnh gây ách tắc giao thông trong nhiều ngày liền. Riêng nhánh tây đường Hồ Chí Minh đoạn qua huyện Tây Giang (tỉnh Quảng Nam) phải đến hết ngày 7-11 mới thông tuyến một chiều" - ông Võ Đình Dũng, tổng giám đốc Khu Quản lý đường bộ 5, cho biết. 

Ông VÕ ĐÌNH DŨNG, tổng giám đốc Khu Quản lý đường bộ 5:

"Rách đâu vá đó"

"So với các năm thì năm nay cung đường Hồ Chí Minh đoạn qua Kontum bị nặng nhất với khối lượng sạt lở ở taluy dương lên hơn 242.000m3. Những điểm sạt lở nặng "đứt" luôn cả taluy dương và âm sẽ do Ban đường Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm. Tư vấn thiết kế sẽ tính toán khối lượng khắc phục sửa chữa để đưa vào hạng mục "Bền vững hóa đường Hồ Chí Minh" trong thời gian tới. Do vậy, ngay bây giờ chưa thể trả lời câu hỏi: sau bão số 9 cần bao nhiêu tiền để khắc phục sự cố đường Hồ Chí Minh.

Lâu nay Khu Quản lý đường bộ 5 vẫn quản lý tuyến đường Hồ Chí Minh theo phương án "rách đâu vá đó", "sạt đâu hốt đó", bởi trung bình mỗi năm ngân sách nhà nước rót về chừng 25 triệu đồng/km đường Hồ Chí Minh. Khoản tiền này dành để trả lương cho công nhân bảo dưỡng tuyến đường, vệ sinh phát quang cống rãnh, vá ổ gà, sơn quét lại cọc tiêu, biển báo... Những hư hỏng lớn cần sửa chữa sẽ do Ban đường Hồ Chí Minh (đóng tại Hà Nội) chịu trách nhiệm".

Trả lời câu hỏi của TTCT về những quan ngại khi nhận trách nhiệm vận hành 300km cung đường Hồ Chí Minh đoạn qua miền Trung, ông Võ Đình Dũng cho rằng vì hầu hết cung đường đều đi qua núi cao, vực sâu nên việc sụt trượt mặt đường, taluy dương là điều không tránh khỏi. Vấn đề là phải có thời gian và tiền bạc để kiên cố hóa các điểm xung yếu có địa chất yếu này.

Đối với những điểm thường xuyên sạt lở gây tắc đường, ông Dũng cho rằng nên tính đến giải pháp làm cầu cạn hoặc khoét núi. "Ở các nước khi mở đường đến các vị trí xung yếu, người ta thường thiết kế cầu cạn vượt núi thay vì phải bạt núi làm đường. Còn ở mình vì ít tiền nên phải bạt núi dẫn đến sạt lở là điều tất nhiên. Riêng vấn đề hiệu quả kinh tế mà đường Hồ Chí Minh mang lại thì phải tính lâu dài".

Theo ông Dũng, hiện mỗi ngày có chừng 400 lượt xe lưu thông trên cung đường nhánh đông (từ Kontum về Đà Nẵng), riêng lưu lượng giao thông trên nhánh tây (Đông Giang đi A Lưới - Huế) hiện rất thấp nếu không nói là rất vắng xe cộ qua lại.

Đ.NAM

ĐOAN TRANG - ĐĂNG NAM

______________

Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải HỒ NGHĨA DŨNG:

"Đây là vấn đề nghiêm trọng"

Bộ trưởng bộ GTVT Hồ Nghĩa Dũng trao đổi với TTCT về việc sạt lở tuyến đường Hồ chí minh.

Theo ông Dũng, vấn đề sụt trượt của tuyến đường Hồ Chí Minh đã và đang diễn ra, sau khi được xử lý có giảm nhưng vẫn là vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt cơn bão vừa rồi đã ảnh hưởng nặng nề đối với 50km đoạn qua Kontum, trong đó có ba điểm lớn hoàn toàn mất đường, mất cầu. Ngoài ra còn hàng chục điểm khác bị ảnh hưởng ở mức độ vừa.

* Trước thực trạng trên, Bộ GTVT đã có những giải pháp nào?

- Chúng tôi đề ra ba bước xử lý. Hiện đang xử lý bước 1 để thông tuyến. Chưa nói đến cơn bão mới nhất có những tác động nào vì còn phải kiểm tra, với cơn bão số 9 thì ngành giao thông đã cố gắng thông tuyến bước 1. Những loại xe tải vừa và xe khách dưới 30 chỗ ngồi đã có thể hoạt động bình thường, còn các loại xe có tải trọng và chở khách cao hơn đang tạm dừng hoạt động trên tuyến đường này. Khắc phục bước 2 là dùng kinh phí duy tu bảo dưỡng (trong các trường hợp có bão lũ) để trả lại (xây dựng lại các tuyến đường bị ảnh hưởng do bão lũ) ở mức độ bình thường. Bước 2 cũng đang được thực hiện.

Tuy nhiên, bước 1 và bước 2 là chưa đủ, đối với một số điểm sụt trượt nghiêm trọng thì không thể nào phục hồi nhanh được mà phải lập dự án để đầu tư lại. Đó chính là bước 3 và việc này cần phải có thời gian. Một số cầu trên quốc lộ 24 hiện đã có cầu phao để hoạt động, khoảng ba tháng nữa sẽ có cầu tạm, đồng thời đang lập dự án xây dựng cầu mới thay cầu cũ.

* Đối với những điểm mà sau lũ đã hoàn toàn mất đường thì sao, thưa bộ trưởng?

- Nếu đã mất hẳn đường thì phải làm dự án mới, nghiên cứu cầu cạn qua đường đó hoặc xẻ núi mở tuyến mới dựa vào núi. Nếu giải quyết triệt để thì một số chỗ phải làm cầu cạn.

* Ông nhận xét thế nào về chất lượng xây dựng cầu đường ở đây, khi đã xảy ra tình trạng sạt lở nghiêm trọng như vậy?

- Chất lượng làm đường đạt yêu cầu, nhưng địa chất về lâu dài chưa ổn định. Mức độ tàn phá của cơn bão vừa rồi quá dự tính của chúng ta. Ngoài ra còn một số ảnh hưởng, biến động khác do chặt phát rừng, bom đạn từ thời chiến tranh...

* Phải chăng đã có những lúng túng trước sự sạt lở quá nhiều ở tuyến đường Hồ Chí Minh sau lũ?

- Chúng tôi luôn chuẩn bị sẵn sàng, khi có thông tin bão lũ thì các việc cần thiết đều được triển khai... Tất nhiên trong bão lũ thì các ngành khác như cứu hộ vào trước, khi nước rút thì giao thông mới vào. Nói chung đều có dự báo, đều có kế hoạch, nhưng nói có lường hết không thì không lường hết được, ví dụ như ảnh hưởng của bão số 9 ở khu vực Tây nguyên.

V.V.THÀNH thực hiện

Ông ĐOÀN ĐỨC CƯỜNG (chủ nhiệm văn phòng dự án Tổng công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải):

"Cần nhiều thời gian để kiên cố hóa đường Hồ Chí Minh"

Đoạn đường Hồ Chí Minh từ Quảng Nam lên Kontum qua đèo Lò Xo đi theo hướng quốc lộ 14 cũ. Ở đoạn này tầng phủ có chiều dày lớn, kết cấu xốp rời, khi bị bão hòa thì cường độ giảm nhanh và trọng lượng tăng lên, gây ra hiện tượng trượt hoặc chảy xệ xuống mặt đường, thậm chí có thể phát triển thành dòng lũ bùn đá khi có mưa bão kéo dài.

Tháng 3-1997 khi đi thị sát để lập dự án xa lộ Bắc Nam (nay được đổi tên thành đường Hồ Chí Minh), chúng tôi đã thấy hiện tượng sụt trượt ở phía taluy dương và xói lở chân taluy âm do tác động của dòng chảy sông Cái ở đoạn tuyến từ cầu Xơi lên Khâm Đức và đoạn qua đèo Lò Xo.

Vấn đề sụt trượt và bền vững hóa tuyến đường đã được lưu ý, và còn phải tiếp tục xử lý trong quá trình khai thác sử dụng sau này. Vì thế, Chính phủ đã cho phép triển khai dự án kiên cố hóa đường Hồ Chí Minh toàn tuyến nhưng tập trung ở nhánh phía tây từ Khe Gát (Quảng Bình) đến Thạnh Mỹ (Quảng Nam) và hai đoạn chính của nhánh phía đông là đoạn qua đèo Đá Đẽo (Quảng Bình) và đoạn qua đèo Lò Xo giữa hai tỉnh Quảng Nam và Kontum.

Trên đường Hồ Chí Minh, người ta đã áp dụng hơn mười giải pháp xử lý sụt trượt như trồng cỏ vetiver, lát mái taluy bằng tấm bêtông ximăng hoặc ốp đá, làm khung bêtông kết hợp trồng cỏ, xây dựng tường chắn bằng bêtông cốt thép hoặc tường rọ đá neo (theo công nghệ của nước ngoài hoặc dùng rọ đá bọc nhựa PVC của VN), xây dựng cầu cạn để đưa tuyến ra ngoài phạm vi sụt trượt...

Đường Hồ Chí Minh là một dự án có quy mô lớn, trải dài qua nhiều khu vực có điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn phức tạp. Việc nghiên cứu và xử lý triệt để nhằm bảo vệ độ bền vững của công trình cần có thời gian và không thể giải quyết một lúc được ngay.  

 Đ.TRANG ghi

Friday, November 6, 2009

Nguy cơ mất nhiều "đơn hàng" lao động tại Đài Loan

Lao động Việt Nam do Công ty Emico đưa sang Đài Loan làm việc cho Công ty Sản xuất kính tivi Nec - Ảnh: N.Duy
Do lo ngại lao động Việt Nam bỏ trốn nhiều, một số nhà máy ở Đài Loan chuyển "đơn hàng" sang các nước Thái Lan, Indonesia, Philippines...

Theo báo cáo của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, 10 tháng qua, cả nước có 58.260 lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài. Trong đó, Đài Loan là thị trường tiếp nhận nhiều nhất, với 17.776 người (chiếm 30,5%).

Sau giai đoạn suy giảm, hiện phần đông nhà máy, công xưởng của Đài Loan bắt đầu gia tăng nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài. Tuy nhiên, trong chuyến sang Việt Nam cuối tuần qua, ông Hoàng Khải Minh, Tổng Giám đốc Tập đoàn Forward, cho rằng lợi thế cạnh tranh của XKLĐ Việt Nam ở thị trường này đang mất dần vào tay các nước do tình trạng lao động bỏ trốn gia tăng.

Thị trường phục hồi

Kinh tế Đài Loan đang hồi phục nhanh. Những ngành nghề truyền thống như dệt may đang thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc. Các ngành sản xuất linh kiện ô tô, xe máy, xe đạp cũng gia tăng trở lại việc tiếp nhận lao động. Ở lĩnh vực điện tử - lĩnh vực thu hút đông lao động Việt Nam, người lao động bắt đầu phải tăng ca nhiều.

Hiện một số doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam khai thác mạnh thị trường này như Sovilaco, Sona, TTLC, Emico... cũng đã nối lại việc cung ứng lao động bằng những hợp đồng mới.

Thông qua đối tác là Tập đoàn Forward, Emico đang bắt đầu khai thác đơn hàng tuyển dụng 35 lao động sang Đài Loan làm việc cho công ty sản xuất pin năng lượng mặt trời Húc Tinh; 18 nam lao động cho một công ty sản xuất xe đạp địa hình; 35 lao động nữ cho Công ty Điện tử Kính Bằng và một hợp đồng khác cung ứng trên 100 lao động xây dựng vào tháng 2-2010.

Tình hình việc làm của lao động Việt Nam ở thị trường này rất ổn định. Theo ông Hoàng Khải Minh, hầu hết lao động Việt Nam đang làm việc ở Công ty Kính Bằng có thu nhập trên 20 triệu đồng/tháng. Ở nhiều nhà máy khác sử dụng đông lao động VN như Chí Cường, Nec, Dệt Hoa Long..., nhờ có nhiều thời giờ làm thêm, thu nhập của người lao động cũng đạt mức cao.

Cửa vào bị thu hẹp

Dù nhu cầu gia tăng trở lại nhưng khó khăn lớn nhất hiện nay là vấn đề xin cấp giấy phép làm việc, visa cho người lao động. Do thực hiện chính sách bảo hộ việc làm cho lao động bản địa nên chính quyền Đài Loan quy định chỉ khi nào chủ sử dụng lao động chứng minh đã dành 5 chỗ làm việc cho lao động bản địa thì mới cấp visa cho một lao động nước ngoài.

Chính vì quy định nghiêm ngặt như vậy nên các nhà máy, xí nghiệp rất hạn chế việc trả lao động về nước. Chính sách trên giúp những lao động đang làm việc theo hợp đồng yên tâm hơn.

Nhưng điều đáng nói là cũng chính quy định này khiến giới chủ sử dụng lao động Đài Loan thận trọng hơn, thậm chí không dám sử dụng lao động Việt Nam. Lý do là hiện nay tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn nhiều và có xu hướng gia tăng.

Trong khi việc xin visa khó khăn thì việc người lao động bỏ trốn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch sản xuất của nhà máy vì không có lao động để thay thế. Hiện đã có một số nhà máy bắt đầu chuyển đơn hàng tuyển dụng lao động Việt Nam sang các nước Thái Lan, Indonesia, Philippines.

Điển hình như Công ty Sản xuất lốp ô tô Kiến Đại. Trước đây, công ty này chỉ sử dụng lao động Thái Lan, sau đó chuyển sang sử dụng lao động Việt Nam nhưng hiện nay do lo ngại tỉ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn cao nên công ty này quay lại nhận lao động Thái Lan.

Ông Hoàng Khải Minh cho rằng đây là vấn đề mà XKLĐ của Việt Nam cần đặc biệt quan tâm và phải có biện pháp tháo gỡ. Nếu tình hình lao động bỏ trốn không được cải thiện, chắc chắn sẽ còn nhiều đơn hàng tiếp tục chuyển từ Việt Nam sang các nước cùng khu vực.

Thông qua các đơn hàng do Forward khai thác, đến nay có khoảng 10.000 lao động Việt Nam được ký hợp đồng sang Đài Loan làm việc. Chỉ tính riêng số lao động sang Đài Loan theo đơn hàng do Forward cung cấp, tỉ lệ lao động bỏ trốn chiếm từ 3%-5%. Ông Hoàng Khải Minh cho biết tỉ lệ này sẽ còn cao hơn  nếu tính trên tổng số lao động XKLĐ Việt Nam ở thị trường này.

Một bộ phận không nhỏ lao động thiếu việc, mất việc do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế không tìm được việc làm mới hoặc chuyển chủ theo quy định nên trốn ở lại, làm gia tăng tình trạng trên.

Theo MAI NGUYỄN - Người lao động

Thủy điện đã tiếp tay cho lũ lụt


"8 năm trước tôi đã đặt vấn đề rừng chính là an ninh môi trường cho người dân. Nhiều người bảo tôi phóng đại, nhưng giờ thì hàng trăm người chết trong mỗi trận lũ. Cứ bão vào miền Trung mà kèm theo mưa đều gây ra lũ lụt, chết người", đại biểu Quốc hội Nguyễn Đình Xuân nói.
- Trong cơn bão KetsanaMirinae, các nhà máy thuỷ điện miền Trung đã xả lũ đúng lúc lũ lụt căng thẳng nhất. Ông nhìn nhận thế nào về việc này?
- Nếu vận hành tốt thì bản chất thuỷ điện là cắt lũ. Nhưng vận hành không tốt, đặc biệt là thiếu phối hợp giữa các nhà máy thuỷ điện và vì lợi ích cục bộ thì thuỷ điện trở thành cánh tay nối dài cho thuỷ tinh. Thông thường, trước khi bão vào 2 ngày người ta phải xả lũ xuống cao trình thấp. Ví dụ mức chứa của hồ này là 500 triệu m3 thì họ xả bớt 300 triệu m3, chỉ giữ lại 200 triệu m3. Khi lũ về khoảng 1.000 triệu m3 chỉ phải xả thêm 500 triệu m3 và giữ lại 500 triệu m3. Làm được như vậy thuỷ điện sẽ có tác dụng cắt lũ.
Tuy nhiên, những người làm thủy điện lại suy nghĩ nhỡ xả trước mà trời không mưa hay mưa ít thì sao? Họ đã đặt lợi ích của mình lên trên và hành động theo kiểu cứ đợi từ từ xem sao. Khi lũ ào ạt về thì họ thấy lợi ích của mình bị đe dọa, họ buộc phải xả. Không xả thì vỡ đập mà vỡ đập thì còn chết nhiều hơn. Vì thế, khi lũ về, các hồ thuỷ điện ở thượng lưu thi nhau xả lũ. Ví như trên sông Ba vừa rồi có tới 9 hồ thuỷ điện, nhưng lại không có một "nhạc trưởng". Hồ dưới không biết khi nào hồ trên xả nên thấy trên xả là dưới cũng xả theo.
Vấn đề thứ hai là khi lấy 1.000 ha làm lòng hồ thuỷ điện thì chúng ta còn mất thêm 1.000-2.000 ha đất rừng hay nông nghiệp ở thượng nguồn. Như vậy rừng còn quá ít. Vì theo tính toán ban đầu có thể với diện tích rừng như vậy thì phải 1.000 năm mới có một trận lũ, nhưng do rừng bị tàn phá quá nhanh và quá nhiều nên khi không còn rừng thì hồ thuỷ điện chỉ chịu được lũ 10 năm thôi. Như vậy tất cả quy hoạch, tính toán ban đầu đã bị phá vỡ.
"Phải làm sao dung hoà được lợi ích của thuỷ điện và người dân hạ lưu, trong đó lợi ích của người dân phải được đặt lên hàng đầu chứ không phải của thuỷ điện", đại biểu Nguyễn Đình Xuân khẳng định. Ảnh: Hồng Khánh.
- Ông nghĩ sao trước ý kiến quy hoạch và quản lý vận hành thuỷ điện miền Trung đã bị thả nổi?
- Hiện quy hoạch mỗi hồ thủy điện không dựa trên quy hoạch tổng thể, không có quy hoạch chiến lược, đánh giá môi trường của toàn bộ lưu vực con sông. Phải có quy hoạch tổng thế mới tính được trên dòng sông có bao nhiêu thuỷ điện và làm thế nào để nó không gây hại cũng như giải quyết các vấn đề dân sinh, môi trường ở thượng nguồn. Chúng ta đã không giải quyết được bài toán đó. Chúng ta vừa muốn có điện, vừa muốn thoát lũ, lại vừa muốn phá rừng để trồng cây cao su, các mục tiêu mâu thuẫn nhau.
Thứ hai, chúng ta phân cấp cho địa phương làm quy hoạch mà địa phương thì dễ vì quyền lợi của mình. Thế nên ở thượng nguồn thì phá rừng nhưng hạ nguồn phải gánh chịu.
Hệ quả là hạ nguồn phải hứng những trận lũ lụt. Điều này đã được cảnh báo từ trước. Cách đây 8 năm khi được bầu vào Quốc hội, tôi đã đặt vấn đề rừng chính là an ninh môi trường cho người dân. Nhiều người bảo tôi phóng đại, nhưng giờ thì hàng trăm người chết trong mỗi trận lũ. Bây giờ các trận bão vào miền Trung mà kèm theo mưa dù lớn dù bé đều gây ra lũ lụt, chết người. Quay trở lại 20-30 năm trước xem có chuyện đó không? Số liệu hiện vẫn có mà.
- Theo ông, ai phải chịu trách nhiệm trước việc không có nhạc trưởng trong xả lũ ở miền Trung?
- Đó là Bộ Công thương. Đây là bộ quản lý ngành và tất nhiên có hai bộ liên quan là Tài nguyên Môi trường quản lý về tài nguyên nước và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý rừng. Nhưng việc điều tiết nước là trách nhiệm chính của Bộ Công thương nên bộ phải tính toán điều đó.
Nhiều thủy điện hiện nay do tư nhân bỏ tiền đầu tư và quản lý, cho nên mới cần tới vai trò của quản lý nhà nước. Mỗi ông chủ nhà máy thuỷ điện đều phải tính cách nào có lợi cho mình nhất, nhưng cơ quan nhà nước phải đề ra được các quy trình vận hành và giám sát chặt chẽ. Nếu có sự vi phạm thì lập tức phải xử lý ngay.
- Ngoài "nhạc trưởng" Bộ Công thương, còn ai có trách nhiệm quản lý vận hành xả lũ?
- Các nước quản lý theo lưu vực mỗi dòng sông, tức là toàn bộ diện đưa nước về dòng sông, gồm diện tích rừng, diện tích các hồ chứa, diện tích nông nghiệp. Chứ như ta chia quản lý theo tỉnh nên thất bại.
- Với tư cách là thành viên Ủy ban Khoa học công nghệ môi trường, ông sẽ kiến nghị thế nào để giảm thiểu thiệt hại cho người dân trong mỗi trận bão lũ?
- Tôi đang hướng tới đề xuất. Thứ nhất là tổ chức Ủy ban điều tra gồm nhiều nhà khoa học để làm rõ thực trạng vận hành thuỷ điện có sai sót gì không, độ che phủ của rừng có đủ để đảm bảo vận hành các hồ thuỷ điện... và báo cáo trước Quốc hội. Thứ hai, tôi đề nghị Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời điều tra về hiện trạng thuỷ điện, rừng, quản lý đất đai, tài nguyên... ở miền Trung.
Từ kết luận của Ủy ban này chúng ta mới rút ra được vấn đề, từ đó biết cần làm gì tiếp theo. Trước mắt, tôi đề nghị tạm dừng các dự án thuỷ điện miền Trung để chờ kết luận từ cuộc điều tra, sau đó mới tính làm gì tiếp theo.
Có lần tôi đến thuỷ điện Đa Nhim và hỏi ông giám đốc là thượng nguồn nhà máy có bao nhiều rừng, quản lý thế nào thì ông ta hoàn toàn không biết. Như vậy ăn quả không nhớ kẻ trồng cây, uống nước không nhớ nguồn thì hậu quả phải gánh chịu thôi. Không thể nói quyền lợi thì mỗi người hưởng riêng còn nghĩa vụ thì giao cho người khác.
Xuân Hoa gh

Vô tư xả lũ, dân lãnh đủ

Trao đổi với phóng viên Báo NLĐ ngày 5-11, ông Nguyễn Ty Niên, nguyên cục trưởng Cục Đê điều và Phòng chống lụt bão, bàng hoàng với mức xả 14.000 m³/giây ở thủy điện Sông Ba Hạ. Ông cho rằng tình trạng các thủy điện đầu nguồn xả lũ vô tội vạ là nguyên nhân gây lũ lớn ở hạ lưu

. Phóng viên: Thưa ông, nhiều người cho rằng lũ lớn gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản ở miền Trung và Tây Nguyên có phần do tình trạng xây dựng thủy điện ồ ạt ở khu vực này. Ý kiến của ông thế nào?



- Ông Nguyễn Ty Niên: Đợt lũ lụt lịch sử ở miền Trung và Tây Nguyên lần này là do lượng mưa rất lớn. Tuy nhiên, ngoài nguyên nhân thiên tai còn có yếu tố nhân tai. TP Tuy Hòa cao vậy mà còn ngập trắng.

Lãnh đạo thủy điện Sông Ba Hạ trả lời báo chí rằng đã xả nước với lưu lượng 14.000 m3/giây, điều này thật kinh khủng! Với kinh nghiệm làm công tác đê điều và phòng chống lụt bão nhiều năm, tôi rất kinh ngạc về chuyện này.

Nên nhớ là thiết kế lũ tới 500 năm sau ở sông Đà, sau khi điều tiết của hồ thủy điện Hòa Bình, Sơn La qua sông Đuống rồi chảy về sông Hồng (đoạn qua Hà Nội), mức lớn nhất chỉ có 20.000 m3/giây, trong khi đây là hệ thống sông lớn; còn đối với sông Ba Hạ mà xả tới 14.000 m3/giây thì mức độ rất khủng khiếp.

. Ông đánh giá thế nào về tác hại của tình trạng thủy điện đua nhau xả lũ?

- Chính phủ cần chỉ đạo xem xét, làm rõ quy trình vận hành các hồ chứa hiện nay. Đợt lũ lụt đang diễn ra là lời cảnh tỉnh sớm đối với tình trạng bậc thang thủy điện. Đặc biệt, hệ thống sông Đồng Nai là nguy cơ rất lớn cho TPHCM vì có tới 7-8 bậc thang lớn, trong khi hồ chứa nào cũng rất lớn, hồ nhỏ nhất đã có sức chứa vài trăm triệu mét khối nước (Trị An 1,5 tỉ m3, Dầu Tiếng 1,5 tỉ m3, rồi Hàm Thuận - Đa My, Đồng Nai 1...).

Công trình thủy điện Sông Tranh 1 ở vùng cao tỉnh Quảng Nam có thể gây nhiều
tác động bất lợi đến đời sống người dân ở hạ lưu. Ảnh: P.TRỊNH


Mặc dù cả thủy điện A Vương và thủy điện Sông Ba Hạ đều khẳng định xả lũ đúng quy trình nhưng điều tôi băn khoăn là quy trình mà họ nói có bảo đảm tổng thể cho cả lưu vực sông hay chỉ vì lợi ích cục bộ.

Ví dụ, hồ thủy điện Hòa Bình được xây dựng theo quy trình cực kỳ chặt chẽ. Từ dự báo thủy văn, điều hành cho mùa lũ, mức nào được xả đến mức xả bao nhiêu... đều phải báo cho dân hoặc có lệnh di dân; quy trình cắt lũ, quy trình xả lũ đều phải quy định rõ ràng.


Hồ thủy điện Sông Ba Hạ xả tới 14.000 m3/giây là rất lớn. Hiện chúng ta chưa có quy trình vận hành quản lý liên hồ mà chỉ có quy trình của riêng từng hồ.

Từ bão số 9, tôi đã báo cáo Thủ tướng rằng lũ lớn như vậy không thể hoàn toàn do thiên nhiên mà một phần do các hồ chứa thủy điện gây nên. 
Ông Đào Xuân Học (Thứ trưởng Bộ NN- PTNT)
Không biết là khi xả lũ, hai thủy điện nói trên có thông báo cho dân biết không, vì số người thiệt mạng quá lớn. Lãnh đạo Thủy điện Sông Ba Hạ nói không biết thủy điện Ayun Pa (bậc thang trên) xả bao nhiêu thì nguy lắm.

. Có nghĩa là việc quản lý thủy điện theo lưu vực sông đang bị bỏ ngỏ?

- Đến nay chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý việc xả lũ. Hiện có 3 bộ quản lý về nước, gồm Tài nguyên - Môi trường quản lý về tài nguyên nước, NN-PTNT quản lý về các hồ chứa thủy lợi, Công Thương quản lý các thủy điện lớn sau khi có quy trình (thủy điện nhỏ do địa phương quản lý).

Cơ quan nào quản lý đi nữa cũng phải có chuyên ngành thật sâu, có nhiệm vụ tư vấn, cân bằng lợi ích của các bên, có trách nhiệm bảo đảm an toàn, an sinh thật cao và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Các bộ, ngành hiện nay có chức năng nhưng không có... bộ máy, ví như Bộ Tài nguyên - Môi trường được Chính phủ giao quản lý chung nhưng lại không có lực lượng chuyên môn. Rất tiếc, chúng ta đã bỏ Bộ Thủy lợi (chuyên sâu về quy hoạch, quản lý các dòng sông, phòng chống lụt bão).

Dừng ngay các dự án thủy điện mới
TS Nghiêm Vũ Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, nói như vậy khi trao đổi với Báo NLĐ bên hành lang Quốc hội ngày 5-11 về tác động của tình trạng "bội thực" thủy điện đến môi trường sống.

Theo ông Khải, việc đánh giá tác động môi trường của các dự án thủy điện ở miền Trung chưa đến nơi đến chốn, một số dự án được thực hiện còn mang tính hình thức, số liệu thiếu... nên không nhận diện được tổng thể chế độ thủy văn khu vực, độ thấm và giữ nước của rừng hiện nay. Đó là yếu tố dẫn tới lúng túng trong việc điều tiết tích nước.

Bên cạnh đó là sự thiếu nhịp nhàng trong vận hành các nhà máy thủy điện. Tỉnh nào làm theo tỉnh đó, không có sự liên thông, điều hòa; thậm chí văn bản kỹ thuật hướng dẫn vận hành cũng thiếu.

"Vì thế anh có thủy điện thì chỉ lo cho cái thân anh ấy, như là tràn đập, vỡ đập, cho nên mới tạo ra "lũ kép"; lũ thiên nhiên cộng với lũ do con người tạo ra khiến hậu quả hết sức nặng nề" - ông Khải nói.

TS Nghiêm Vũ Khải cho rằng trước đây có quan niệm thủy điện là năng lượng sạch nhưng thực ra các dự án thủy điện quy mô lớn hiện nay không thể gọi là năng lượng sạch, bởi vì khi làm các dự án thủy điện lớn buộc phải di dân. Đó là điều tối kỵ.

Quy hoạch, phát triển thủy điện phải hài hòa nhưng các nhà làm thủy điện chỉ muốn làm đập thủy điện lớn để lãi. Trong khi đó, thủy điện lớn lại chiếm nhiều đất, ảnh hưởng nhiều hơn tới môi trường, hậu quả của thủy điện ngày càng lớn.

Từ đánh giá này, TS Nghiêm Vũ Khải cho rằng đã đến lúc phải xem xét lại các dự án thủy điện ở miền Trung. Nhà máy nào đã làm thì để vận hành nhưng phải có kế hoạch điều hòa, xả lũ mùa mưa và tích nước cho mùa khô; dự án nào nào bất hợp lý phải xem xét lại, thậm chí đình chỉ hoạt động.

Ông Khải đề nghị trong lúc rà soát lại tổng thể quy hoạch các dự án thủy điện ở miền Trung nên tạm dừng ngay các dự án mới để xem xét, thẩm định kỹ lưỡng xem có cần xây dựng tiếp hay không.

Ngành điện, trong đó có thủy điện, thu lợi và nộp ngân sách nên phải trích lãi đó ra để nghiên cứu chứ để một bên hưởng lợi, còn người dân chịu thiệt là không công bằng.
Phạm Dương
Thế Dũng thực hiện

Vìdeo trực tiếp từ Paltalk: Diễn Đàn Chính Trị Tranh Luận Dân Chủ

Video#2 : DienDan ChinhTri TranhLuan DanCHu - Live from PalTalk

Log In Paltalk: DienDan_ChinhTri_TranhLuan_DanChu

Liberty