Tin từ Ngô Đình
Trác báo cho ông bạn tôi, Luật sư Trương Phú
Thứ, hay rằng Bà quả phụ Ngô Đình Nhu, nhũ
danh Maria Trần Lệ Xuân, đã về Nước Chúa lúc
2 giờ sáng ngày lễ Phục Sinh, 24/4/2011, hưởng
thọ 87 tuổi.
Tôi viết bài này
gửi các thân hữu, bạn bè, và những người mà
tôi biết chắc vẫn còn ái mộ, quý mến –hoặc ít ra không thù ghét– Bà Ngô
Đình Nhu, chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa
Việt Nam, và Tổng thống Ngô Đình Diệm. Không
như những phản tướng 1963, tôi chưa hề
gặp mặt Bà Nhu, chưa hề nhận ân sủng nào
của Bà hay của chế độ, ngoài một trăm
đồng Bà tặng Hội JECU (viết tắt của “Jeunes
Etudiants Catholiques Universitaires,” - Thanh Sinh Công Đại Học)
năm xưa, được Ngô Đình Lệ Thủy trao
cho tôi.
Bà Ngô
Đình Nhu là người nổi tiếng thuộc dòng
họ Ngô Đình và người liên hệ trực tiếp
với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa duy
nhất còn sống sót vừa ra đi.
Dù
thương hay ghét Bà, ai cũng phải công nhận Bà là
một nữ lưu thông minh, có tài có sắc, một
cộng sự viên đắc lực, quả cảm
của chồng và anh chồng. Qua hai nền Cộng Hòa, chưa có một phụ
nữ tầm cỡ public figure (người của
quần chúng) Việt Nam
nào làm tôi thấy cảm phục và hãnh diện như Bà Ngô
Đình Nhu. Cho dù, dĩ nhiên, Bà chưa hoàn
hảo, cũng như bất cứ ai trên đời.
Trước và sau vụ đảo chánh 1963, Bà là mục
tiêu tấn công của những nhà báo và chính khách Việt Nam
và ngoại quốc, nhất là Mỹ, chưa nói Cộng
sản đội lốt tôn giáo, đối lập, “cách
mạng,” đã không ngần ngại vu khống, xuyên
tạc, đổ lỗi, thêu dệt đủ
điều, kể cả về đời tư của
Bà. Đọc tất cả những tài liệu đã
được giải mật, và những sách báo cũ, và
những sách báo mới trên các Diễn Đàn Hải
Ngoại –những diễn đàn của Đui Chột,
của Thù Hận, của Ác Độc– tôi thấy bất
nhẫn và buồn nôn trước sự hèn hạ, nhỏ
nhen của con người, vì dù sao Bà cũng chỉ là
một phụ nữ. Bọn họ, kể cả Mỹ và
Tây Phương, không mã thượng, anh hùng đủ, than
ôi, để đánh Bà bằng một cành hoa hồng,
nhưng đã dùng mọi thứ dao búa. Họ
dã man, trên phương diện tinh thần, không khác chi
một Gia Long đã hành hình, về thể xác, nữ
tướng Bùi Thị Xuân và con gái 16 tuổi bằng cách
cho voi dày.
Bà là hiện thân và
nạn nhân của Bất Hạnh như một nữ nhân
vật chính tuyệt đẹp trong những vở bi
kịch Hy Lạp. Nhưng khác với họ luôn vùng lên, phản
kháng, chất vấn Thượng Đế, Bà đã im
lặng, chấp nhận mệnh số nghiệt ngã, và âm
thầm chịu đựng tất cả những oan khiên,
bất công, suốt một nửa thế kỷ.
Một điểm
nữa, ngời sáng, về con người của Bà, mà tôi
tin rằng đến cả kẻ thù cũng không thể
phủ nhận. Khi chồng bị thảm sát, Bà còn trẻ
đẹp lắm
–điều mà báo chí Mỹ thiên vị và ác
độc cũng phải ca ngợi. Nhưng Bà ở
vậy, thờ chồng, nuôi đàn con còn vị thành niên,
không có của chìm của nổi, không lầu son gác tía,
nhờ tham nhũng hoặc ăn cắp
của công. Nếu có bằng chứng Bà phạm vào hai
điều cấm kỵ này, chắc chắn báo chí và công
luận Mỹ và Việt Nam, vốn thù nghịch, đã
không bao giờ để Bà yên. Bà sống khép
kín như một nữ tu tại gia. Không
xuất hiện trước đám đông. Không cho
nhân gian thấy tóc đổi màu, những dấu chân chim in
trên đuôi mắt và những tàn phai bởi thời gian, theo gương những mỹ nhân tự
thuở xưa. Không tuyên bố này nọ.
"Thời của tôi qua rồi,” bà
thường nói với những người quen biết,
như một lời giã biệt thế gian. Không mang tiếng, không bồ bịch, không
bước thêm bước nữa. Không
vì tiền bán thân cho tỷ phú. Nếu
sống vào thời quân chủ, Bà xứng đáng nhận
lãnh bằng khen "Tiết Hạnh Khả Phong.”
Bấy
nhiêu thôi cũng đủ làm tôi yêu mến Bà như một
người mẹ (bà kém mẹ tôi hai tuồi). Ca ngợi Bà như một nữ chính
khách một thời sáng giá, đảm lược, dám nói
dám làm, như chồng Bà, trước vòng vây khốn
của thù trong giặc ngoài. Kính trọng Bà
như một thần tượng. Làm sao tôi không xúc
động khi nghe tin Bà đã bước vào một
cuộc hành trình cuối cùng, ngày Chúa chết trên cây thập
giá và sống lại, để từ nay vĩnh viễn
thuộc về của Tuổi, nói theo Edwin Stanton, belongs to
the Ages.
Nhà danh họa
thuộc phái ấn tượng Auguste Renoir của những
tuyệt phẩm chan hòa ánh sáng và màu sắc, những năm
cuối đời, bị bệnh thấp khớp hành
hạ, không đứng được nữa, phải
ngồi vẽ tranh một cách đau đớn với bàn tay co quắp, nhức buốt. Người
học trò của ông, danh họa Matisse, thấy vậy,
thương ông, đã hỏi: “Tại sao Thầy phải
tiếp tục ngồi vẽ một cách khổ sở
như thế?” Renoir nhìn khung vẽ, trả lời: “Đau
đớn sẽ qua đi. Cái đẹp
sẽ còn lại.”
Tôi
muốn nhắc lời của Renoir, để nói về
Bà, trong một nghĩa nào.
Đau đớn tinh thần của Bà Ngô
Đình Nhu sẽ qua đi. Cũng như
đau đớn thân xác của nữ tướng Bùi
Thị Xuân. Nhưng vẻ đẹp
của Bà sẽ tồn tại. Vĩnh
viễn.
Tôi
biết những kẻ chống và ghét Bà sẽ khó chịu
vì bài viết của tôi. Không sao. Đời mà. Tuy nhiên, xin những kẻ ấy xử sự cao
thượng một chút, như một con người.
Hãy để Bà yên nghỉ, ít nhất trong
thời gian này. Chờ sau ba tháng, một
năm, mười năm nữa, rồi hãy chìa ra nanh
vuốt, cũng chưa muộn.
Tôi muốn báo tin cho
các thân hữu của tôi và xin họ đọc một kinh,
cầu nguyện cho linh hồn Bà mau về Cõi Vĩnh
Hằng, và tìm được Bình An
đích thực. Sau năm mươi năm cô đơn.
Kim Thanh Nguyễn Kim Quý
Ngày Chúa sống
lại 24/4/2011
No comments:
Post a Comment