Hơn 20 năm sau sự kiện ngày 14/3/1988, chúng tôi mới có dịp gặp và nghe các anh kể lại câu chuyện cùng đồng đội vượt trùng dương ra với Trường Sa, để khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
LTS: Hơn 20 năm sau sự kiện ngày 14/3/1988 - ngày mà Hải quân Việt Nam cưỡi sóng ra với Trường Sa, để khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, chúng tôi mới có dịp gặp anh - người đã từng chứng kiến giây phút hải quân Việt Nam đạp sóng để cắm cờ trên đảo Cô Lin, Gạc Ma; từng bị bắt giam tại Trung Quốc rõng rã 3 năm, 5 tháng 15 ngày; từng vượt ngục 2 lần không thành. Cũng chính anh là người tận mắt chứng kiến đồng đội của anh- những chiến sỹ hải quân Việt Nam đã ngã xuống 21 năm về trước để khẳng định chủ quyền của dân tộc, để nối tiếp quá khứ bất khuất và hào hùng của bao thế hệ cha anh. Người đàn ông đó có tên Phạm Văn Nhân (sinh năm 1968, trú tại Đội 1, thị trấn Nông Trường Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Tuần Việt Nam xin giới thiệu câu chuyện được người lính hải quân năm xưa kể lại.
Trường Sa kiêu hùng 20 năm về trước
Anh Nhân kể lại trận hải chiến năm 1988 và những ngày bị bắt giam tại TQ |
Trong câu chuyện chắp vá của anh vào một đêm tháng 10/2009, có cả quá khứ hào hùng nhưng bi thương; có cả ánh mắt rực lửa khi nhắc tới lá cờ Việt Nam phần phật tung bay ngạo nghễ giữa đảo Trường Sa; có cả giọt nước mắt mặn mòi chực lăn trên khóe mắt khi nhắc tới những đồng đội đã ngã xuống; có những tủi hờn về những ngày tháng bị giam cầm tại Trung Quốc; có cả những hạnh phúc tột cùng ngày trở lại Việt Nam và nghe tin những chiến sỹ Hải quân vẫn ngày đêm giữ vững những hòn đảo ở Trường Sa.
Với anh, Trường Sa là máu. Là thịt. Là vùng biển thiêng liêng mà thế hệ những người lính Hải quân ngày đó dù cho phải hy sinh cũng cố gắng giữ gìn từng tấc đất.
Với anh, Trường Sa rất đỗi tự hào, là một phần không thể thiếu được trong cuộc sống hiện tại.
Sau 2 năm nhập ngũ, anh được lệnh ra xây dựng và cắm mốc cờ để khẳng định chủ quyền của đất nước trên đảo Trường Sa trong chiến dịch CQ 88. Ngày đó, anh thuộc Trung đoàn E83 thuộc Bộ tư lệnh Hải quân.
Đêm trước lúc lên tàu, anh hồi hộp không ngủ. Với anh, cái tên Trường Sa tuy là lạ lẫm nhưng rất đỗi thân quen như một phần máu thịt chảy trong cơ thể người lính tuổi 20. Anh tưởng tượng về Trường Sa giữa muôn trùng biển khơi, về những người lính ngày đêm hiên ngang cầm súng để bảo vệ vùng biển. Và anh mong sẽ góp một phần sức trẻ cho hòn đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Sáng 12/3/1988, tàu HQ 604 chở hơn 100 người bao gồm lực lượng công binh, lính 146... trong chiến dịch CQ 88 hú 3 hồi còi rồi vươn mình tiến về biển khơi. "Trước lúc tàu rời đất liền, chỉ huy lên tàu bắt tay anh em chúng tôi, chúc cho chuyến đi bình an để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nhìn thủ trưởng ân cần căn dặn và ôm chặt từng người lính, chúng tôi hiểu rõ nhiệm vụ mà chúng tôi được giao sẽ rất thiêng liêng và cao cả"- anh Nhân mở đầu câu chuyện.
Sau hơn 1 ngày lênh đênh trên biển, đến ngày 13/8 tàu HQ 604 bắt gặp tàu HQ 505. Sau khi chuyển một số hàng sang tàu 505, cả 2 chiếc tàu "đặc biệt" này lại xé toang sóng biển, tiến nhanh về phía biển.
4 giờ chiều ngày 13/8, từ xa mọi người trên tàu đã nhìn thấy hòn đảo hiện lên giữa sóng biển trắng xóa. Khi tàu cách đảo khoảng mấy chục mét thì gặp 2 chiếc tàu lớn đã neo sẵn. Một người trên tàu lạ cầm loa và bảo rằng: đây là lãnh thổ Trung Quốc, đề nghị người Việt Nam rời khỏi.
"Lúc đấy, tôi cảm thấy bị xúc phạm. Mặc, những người lính đi trên chuyến tàu HQ 604 vẫn không nao núng. Theo lệnh của người chỉ huy trưởng Trần Đức Thông, anh em chúng tôi cử người xuống đo độ sâu, thả neo, 1 người được cử lên đảo để khảo sát" - anh Nhân tiếp câu chuyện.
Đêm đầu tiên trên đảo, Nhân cùng một số đồng đội bơi ra khảo sát đảo. Lần đầu tiên trong đời, anh được ngắm những nhành san hô đá, san hô trúc rực rỡ sắc màu.
Trước, anh chỉ được biết về quần đảo Trường Sa qua sách vở, qua những câu chuyện của những bậc cao niên trong làng.
Nay, Trường Sa hiện rõ mồn một trước mắt anh với những nhành san hô lung linh huyền ảo, với đại dương mênh mông sóng nước.
Rồi, anh tự hứa - lời hứa của một trái tim 20 tuổi: "Biển trời Việt Nam đẹp quá. Ta nguyện sẵn sàng hiến dâng tuổi trẻ để bảo vệ từng tấc đất, ngọn cỏ, từng con sóng. Nếu như có phải hy sinh vì mảnh đất mang tên Trường Sa thì cũng đáng tự hào".
Đêm. Sau khi lấy một ít san hô lên tàu để làm kỉ niệm, anh vào ngủ chung với anh Phỏng - Đại đội phó. Những câu chuyện về Trường Sa, về gia đình qua lời kể của Đại đội phó làm anh không ngủ được. Nhân hãnh diện và tự hào vì mình là một trong hàng triệu triệu thanh niên ngày ấy may mắn được đặt chân đến quần đảo Trường Sa.
Hải chiến ngày 14/3/1988
Anh Nhân cùng vợ và hai con |
"Lúc đó, tôi đang chuyển hàng từ tàu xuống thuyền thì nghe thấy tiếng quát tháo từ trên đảo. Ngước mắt nhìn lên, đã thấy hàng chục lính Trung Quốc được trang bị súng AK và tiểu liên đổ bộ lên đảo. Phía bên cạnh mạn sườn tàu 604, có 2 tàu chiến Trung Quốc áp sát. Một lúc sau, tôi nghe thấy hàng loạt tiếng nổ chát chúa trên đảo. Liền sau loạt đạn AK đó, đã thấy lính Trung Quốc đi trên mấy chiếc xuồng chiến vãi trấu lên boong tàu.
Sau khi cho quân từ các xuồng chiến vãi đạn lên boong, tàu chiến Trung Quốc vội dùng pháo 100 mm bắn thẳng vào tàu HQ 604. Phát pháo đầu tiên nhằm thẳng vào trung tâm báo vụ của tàu 604. Liền sau đó, pháo 100 ly lại bắn thẳng vào khoang chứa máy.
Anh em chúng tôi được lệnh rút vào phía khoang tàu chứa hàng. Ở trong vẫn nghe rõ những tiếng nổ chát chúa của súng AK, pháo 100 ly.
Tàu thủng. Nước ào nhanh vào cả khoang chở hàng rồi bị nhấn chìm. Nước vào quá nhanh đã đánh bật tôi vào góc chứa hàng. Tôi lặn xuống và mò mẫm tìm lối thoát ra.
Sau một lúc vật lộn với sóng biển, lúc sức đã kiệt thì tôi mới tìm thấy lối ra. Vừa ngoi ngóp lên mặt nước đã thấy lính Trung Quốc dùng AK bắn xối xả vào anh em chúng tôi. Chúng tôi lại lặn sâu để tránh làn đạn của tàu Trung Quốc" - anh Nhân bồi hồi nhớ lại những phút giây kinh hoàng hơn 20 năm về trước.
Sau một hơi lặn, anh và các đồng đội lại nổi lên mặt nước. Lúc này, phía Trung Quốc thu quân và bỏ đi.
Bị thương ở mặt và chân, Nhân vẫn cố gắng vật lộn với nước và vớ được một thanh gỗ rồi bám vào đấy. Anh nhìn quanh, chỉ thấy 8 người đồng đội của anh cũng đang bấu víu vào những thanh gỗ và vật lộn với sóng biển trong cái rét tê dại. Anh thốt lên không thành lời: "Đồng đội của tôi, các bạn đâu cả rồi".
Lần đầu tiên trong đời anh khóc. Nước mắt hòa lẫn với vị mặn chát của biển khơi.
Hòn đảo Cô Lin, Gạc Ma vẫn hùng dũng, sừng sững giữa trùng dương như là nhân chứng sống cho phút giây những người lính Hải quân Việt Nam chiến đấu để bảo vệ chủ quyền.
5 giờ chiều, 2 chiếc tàu chiến Trung Quốc quay lại và trục vớt 9 người lên tàu. Nhân là người cuối cùng được vớt lên. Sau khi lên tàu, lính Trung Quốc ra hiệu yêu cầu Nhân và đồng đội đầu hàng. Mặc vết thương đang rỉ máu, mặc súng kê cạnh đầu, mặc lính Trung Quốc dọa dẫm, Nhân cùng với đồng đội vẫn thản nhiên, mắt nhìn thẳng vào những người lính Trung Quốc đối diện. Anh còn nghe rõ một người lính Trung Quốc nói oang oang: "Lính Việt Nam không biết đầu hàng thì phải".
9 con người sống sót và lênh đênh trên biển cho đến khi bị bắt, đến bây giờ anh Nhân vẫn nhớ rõ từng cái tên và địa chỉ. Anh đọc vach vách cho chúng tôi nghe, đó là Nguyễn Tiến Hùng, Trương Văn Hiền, Lê Văn Đông, Nguyễn Văn Thống, Mai Xuân Hải, Trần Thiêm Phụng, Trương Bá Dũng, Lê Minh Thoa và anh - Phạm Văn Nhân.
No comments:
Post a Comment