QUẢNG NAM
14-11 (NV) - “Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện trên đầu nguồn của hệ
thống sông Vu Gia-Thu Bồn hiện có 110 dự án thủy điện lớn và nhỏ đã và
đang được triển khai. Tuy trong đó có 8
nhà máy thủy điện bậc thang thuộc loại lớn nhất trong khu vực trên hệ
sông lớn này.” Báo điện tử VietNamNet ngày Thứ Bảy cho hay như vậy và
nói hiện đã có 6 nhà máy đang đi vào hoạt động. VietNamNet nói mới 6
nhà máy mà đã “làm thịt” hơn 2,000 ha rừng nguyên sinh.
Nếu chia đều, chưa tới 2 km đã có một đập thủy điện.
Nếu
tất cả những đập thủy điện sẽ được xây dựng dày đặc trên thượng nguồn
hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn, phần lớn rừng nguyên sinh của tỉnh
Quảng Nam
còn gì? Mỗi năm, chúng hối hả xả lũ vào mùa bão sẽ có bao nhiêu người
chết, bao nhiêu ngàn căn nhà, đồng ruộng chìm trong biển nước?
VietNamNet
đưa ra con số 110 dự án thủy điện nói trên khi đưa tin nói nhà cầm
quyền CSVN tỉnh Quảng Nam loan báo “xóa sổ” 9 dự án thủy điện trên hệ
thống sông Vu Gia-Thu Bồn hoặc nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên sông
Thanh, hoặc “kém hiệu quả đầu tư” sau 6 năm “triển khai”.
Biết
là xây dựng đập thủy điện ở trong khu vực bảo tồn thiên nhiên là sai
trái vì “xâm hại đến khu vực phải bảo vệ nghiêm ngặt”, còn biết kém
hiệu quả đầu tư sao vẫn “lên kế hoạch” rồi nay mới dẹp bỏ trước sự phản
ứng gay gắt của dư luận, không thấy nhà cầm quyền địa phương giải thích.
Gọi
là kém hiệu quả đầu tư và “không khả thi” gồm 4 dự án thủy điện A Vương
2, thủy điện A Re thuộc huyện Tây Giang và thủy điện Trà Leng 1, Trà
Leng 2 thuộc huyện Nam Trà My.
Hồi xảy ra bão số 9, đập thủy điện A Vương ở Quảng Nam
xả lũ làm ngậm một khu vực rộng lớn ở hạ lưu gây thiệt hại trầm trọng.
Bị đả kích, báo VietNamNet nói “Quảng Nam đã có công văn gửi Bộ Công
Thương, Bộ Tài Nguyên-Môi Trường đề nghị điều chỉnh quy trình vận hành
hồ A Vương và ban hành quy trình vận hành liên hồ chứa thủy điện trên
hệ thống sông Vu Gia-Thu Bồn để tránh thảm họa do các dự án nhà máy
thủy điện đầu nguồn sông Vu Gia-Thu Bồn”.
Tỉnh
Quảng Nam có hai con sông lớn là sông Vu Gia và sông Thu Bồn. Hai con
sông này liên kết với nhau qua một hệ thống phụ lưu lên còn gọi là hệ
thống sông Vu Gia - Thu Bồn.
Sông
Vu Gia dài 204km là một sông lớn ở phía Bắc tỉnh Quảng Nam, bắt nguồn
từ vùng núi ở phía Tây Nam của tỉnh và ở phía Bắc của tỉnh Kontum. Phần
thượng nguồn ở Phước Sơn được gọi là Ðăk Mi, sông chảy theo các thung
lũng hướng Nam lên Bắc. Khi
qua phía Ðông huyện Nam Giang, sông được gọi là sông Cái. Tại đây, nó
nhận một chi lưu lớn ở phía Tây (tả ngạn), đó là sông Giằng. Bắt đầu
khi chảy sang huyện Ðại Lộc, sông được gọi là Vu Gia và có dòng chảy
theo hướng Ðông-Tây. Sông Vu Gia chảy đến địa phận xã Ðại Hòa ở phía
Tây Ðại Lộc thì tách ra làm hai dòng, một là sông Yên chảy lên phía Bắc
hội lưu với sông Cầu Ðỏ, một đi về phía Nam hội lưu với sông Thu Bồn.
Sông
Thu Bồn bắt nguồn từ khối núi Ngọc Linh (Nam Quảng Nam-Bắc Kontum) cao
2,598 mét; phần thượng lưu này được gọi là Ðak Di. Chiều dài của dòng
chính đến Cửa Ðại dài 198 km với tổng diện tích đến Giao Thủy (nơi hợp
lưu với sông Vũ Gia) rộng 3,825km 2.
Sông
chảy ngược lên phía Bắc qua các huyện trung du của tỉnh Quảng Nam như
Nam Trà My, Bắc Trà My, Tiên Phước, Hiệp Ðức. Khi đi qua đây, sông nhận
thêm nhiều chi lưu là các sông, suối nhỏ. Ðoạn chảy qua Tiên Phước và
Hiệp Ðức được gọi là sông Tranh. Bắt đầu khi đi qua địa phận Quế Sơn,
Duy Xuyên, sông mới bắt đầu được gọi là Thu Bồn. Ở Quế Sơn, sông đổi
sang hướng Tây Nam-Ðông Bắc. Khi chảy qua ranh giới giữa Duy Xuyên và
Ðại Lộc, Thu Bồn nhận chi lưu lớn nhất ở tả ngạn, đó là sông Vu Gia.
Sông đổ ra biển Ðông ở cửa Ðại. Cách cửa Ðại không xa ngoài khơi là Cù
Lao Chàm. Trước khi ra biển, sông tạo ra một số phân lưu như sông Ba
Chươm, sông Cổ Cò, sông Ðình, sông Ðò, sông Hội An.
Trừ
phần hạ lưu khá dài ở đồng bằng không thể xây đập thủy điện, con số 101
đập thủy điện đã được xây dựng hoặc chuẩn bị xây dựng sẽ cài vào nhau
san sát “như bát úp”.
Hồi
Tháng Sáu vừa qua, nhà cầm quyền thành phố Ðà Nẵng báo động tình trạng
thiếu nước đối với khu vực này sẽ rất nghiêm trọng “nếu nhà máy thủy
điện Ðăk Mi 4 vận hành như thiết kế ban đầu”.
Không
dưới 40,000 dân, hàng chục ngàn hecta lúa, hoa màu sẽ thiếu nước. Ðặc
biệt, nhà máy nước Cầu Ðỏ, nguồn cung cấp nước chính cho TP. Ðà Nẵng sẽ
phải ngừng hoạt động vì bị nhiễm mặn...
Bản
tin VietNamNet dẫn lời ông Bùi Thọ Ninh, trưởng phòng kỹ thuật (công ty
cấp nước Ðà Nẵng) cho hay, nhà máy nước Cầu Ðỏ hiện cung cấp 120,000m3
nước sạch/ngày (sắp tới sẽ nâng lên 170,000m3/ngày), đồng thời cung cấp
nước thô cho nhà máy nước Sân bay với công suất 30,000m3/ngày.
Trong
khi đó, tổng lượng nước sạch các nhà máy cung cấp cho Ðà Nẵng hiện vào
khoảng 155,000m3/ngày. Có nghĩa, nếu nhà máy nước Cầu Ðỏ ngừng hoạt
động thì hầu như cả Ðà Nẵng sẽ “chết khát”.
Nguyên
do là đơn vị tư vấn dự án thủy điện Ðăk Mi 4 đã có sự nhầm lẫn tệ hại,
theo bản tin trên, khi thực hiện nguyên tắc “trả nước về sông cũ” trong
việc thiết kế xây dựng, vận hành nhà máy này. Theo đó, dòng nước cơ bản sông Ðăk Mi được tính toán chuyển về sông Thu Bồn để phát điện, sau đó chảy về sông Vu Gia.
Ngày
11 Tháng Sáu 2009, báo Lao Ðộng dẫn ý kiến UBND TP. Ðà Nẵng cảnh báo là
“sẽ có thảm họa môi trường, gây bất ổn xã hội nếu thiết kế xây dựng
thủy điện Ðăk Mi (Quảng Nam ) mà cắt tiệt dòng sông Vu Gia để đổ về
sông Thu Bồn”.
Tờ
Lao Ðộng thuật lời Chủ Tịch UBND TP. Ðà Nẵng Trần Văn Minh cho biết:
“Ðây không chỉ là cảnh báo, thực tế từ Tháng Bảy 2008, khi thủy điện A
Vương (một nhánh ở thượng nguồn sông Vu Gia) tích nước, đã gây hạn hán
cho 10,000ha đất nông nghiệp hạ lưu, khiến nhà máy nước Cầu Ðỏ ngừng
hoạt động vì nhiễm mặn”.
Mùa khô thì chận nước gây hạn hán cho đồng ruộng, mùa bão thì xả lũ gây ngập lụt và chết người.
“Trong khi đó, dòng cơ bản của thủy điện A Vương mới chỉ bằng 1/3 dòng cơ bản của thủy điện Ðăk Mi 4. Cho
nên, nếu chuyển toàn bộ nước sông Ðăk Mi về sông Thu Bồn mà không đổ
thẳng về sông Vu Gia như trước thì cả một vùng rộng lớn gồm Ðà Nẵng,
Hội An, Ðiện Bàn... chỉ còn cách ra múc nước biển về lọc để uống thôi!”
- ông Bùi Thọ Ninh báo động.
Trong
văn bản trả lời chất vấn của dân biểu Quốc Hội về đập thủy điện xả lũ
giết dân, theo tờ Tuổi Trẻ ngày 13 Tháng Mười Một 2009, ông Phạm Khôi
Nguyên dẫn kết quả kiểm tra đột xuất 9 dự án thủy điện ở Tây Nguyên hồi
Tháng Bảy nói rằng, “phần lớn các dự án đều không thực hiện nghiêm theo
báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt. Các
dự án thủy điện đã và đang làm suy giảm diện tích rừng, hình thành
những đoạn sông chết do chế độ điều tiết nước chưa hợp lý, chưa tính
đầy đủ và chưa có giải pháp xử lý đối với những biến đổi về sinh thái ở
thượng lưu và hạ lưu của các dự án, không có kế hoạch điều tiết nước
liên hồ chứa và có thể có tác động tiêu cực đến an ninh nước.”
No comments:
Post a Comment