Tác giả: Nguyễn Trung
Bài đã được xuất bản.: 3 giờ trước
25 năm vận hành nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng theo chiều
rộng, chúng ta đang đứng trước nguy cơ trở thành một nước đi làm thuê
và đất nước cho thuê với cả nghĩa đen và nghĩa bóng - Nguyễn Trung
LTS:
Trong
phần trước, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung bàn về ứng xử đối ngoại cần có
của Việt Nam trong thập kỷ mới, trong đó bàn sâu về quan hệ Việt -
Trung. Từ đó, ông đi đến kết luận: để VN có vai trong thế giới mà các
nước lớn, trong đó có Trung Quốc cần, dân tộc VN cần phải tìm cách
thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế.
Ở phần này, Nguyễn Trung phân tích những thách thức của mô hình phát triển hiện tại.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, trong đó có những vấn đề
cần được tiếp tục tranh luận và làm sáng tỏ thêm.
Phần trước:
25 năm chưa thấy rõ hình hài công nghiệp hoá
Trong 25 năm kể từ khi tiến hành Đổi
Mới, kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng:
chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh về giá lao động rẻ (trình độ
tay nghề thấp, ít hàm lượng kỹ thuật, thậm chí một bộ phận đáng kể là
lao động cơ bắp); khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3)đẩy mạnh đầu tư
từ các nguồn trong nước và nước ngoài cho phát triển một nền kinh tế sử
dụng nhiều lao động giá rẻ và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên,
(4)sử dụng lãng phí đất đai và không thân thiện với môi trường.
Nhìn chung trong suốt thời kỳ này nước
ta đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, song chất lượng
tăng trưởng kinh tế thấp so với công sức bỏ ra và so với những cái giá
phải trả. Đại hội X đã phê phán tình trạng yếu kém của mô hình phát
triển theo chiều rộng.
Mối lo lớn nhất là sau ¼ thế kỷ tăng
trưởng và phát triển kể từ khi đổi mới, nước ta cho đến nay vẫn chỉ là
người cung cấp lao động rẻ, nông phẩm thô, nguyên liệu thô hoặc sơ chế
thấp, sản phẩm gia công, sản phẩm chế tạo với hàm lượng công nghệ thấp,
đất đai và thị trường nội địa trở thành nơi thu hút FDI chủ yếu cho
công nghiệp có hàm lượng công nghệ thấp và gây nhiều gánh nặng cho môi
trường tự nhiên và xã hội...
Trong
thập kỷ tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nhất thiết đòi hỏi
phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện thế giới - với lý tưởng lợi ích dân
tộc và lợi ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí tuệ và
bản lĩnh tạo ra cho đất nước bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ
được, bên ngoài là một bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép.
|
Với chiến lược phát triển dựa vào 4 yếu
tố như vậy, thế mạnh lớn nhất và nguồn lực nội tại lớn nhất của đất
nước là con người Việt Nam không được phát huy. Trên thực tế nước ta
đang đứng trước nguy cơ trở thành một nước đi làm thuê và đất nước cho thuê với cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Với GDP tính theo đầu người hiện nay
đạt khoảng 1000 USD - tăng khoảng 10 lần so với khi bước vào đổi mới,
nước ta mới ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Hiện
tại nền kinh tế nước ta phát triển ở mức thấp trên các phương diện:
trình độ lao động, hàm lượng công nghệ, năng lực kinh doanh, năng lực
quản lý đất nước, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của con người, của
văn hóa, xã hội và của toàn bộ hệ thống chính trị...
Nhìn chung sau 25 năm vẫn chưa thấy
hình hài của một nền kinh tế công nghiệp hóa, càng chưa thể hình dung
một quốc gia công nghiệp Việt Nam trong vòng một hai thập kỷ tới sẽ ra
sao. Điều này có nghĩa vào năm 2020, thời điểm hoàn thành mục tiêu trở
thành nước công nghiệp hóa, nước ta sẽ vẫn còn đứng cách rất xa các chỉ
tiêu của một nước được coi là hoàn thành giai đoạn công nghiệp hóa.
Một quốc gia hoàn thành thời kỳ công
nghiệp hóa còn phải được nhìn nhận theo các tiêu chí của một xã hội
công nghiệp. Trên phương diện này, phải nói nước ta còn khá lạc hậu so
với một nước công nghiệp hóa và so với thế giới chung quanh về nhiều
mặt: dân trí, tính công khai minh bạch, xã hội dân sự, năng lực, tính
trách nhiệm và tính tin cậy được (accountability) của bộ máy nhà nước,
đặt Hiến pháp và pháp luật lên trên hết, khả năng đề kháng hay khắc
phục những tha hóa mới về nhiều mặt nhiễm phải trong quá trình công
nghiệp hóa và hội nhập, đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng lạc hậu và
đi sai hướng của hệ thống giáo dục với những hệ quả lâu dài và khó
lường cho tương lai...
Nói một cách hình ảnh: Đến năm 2010,
sau ¼ thế kỷ đổi mới, nước ta có lẽ mới chỉ đi được khoảng 1/3 hay một
nửa đầu của toàn bộ chặng đường công nghiệp hóa mà thôi.
Từ nay đến năm 2020 có cách nào "đi"
hay "bay" nốt 2/3 hay một nửa chặng đường còn lại không? Dứt khoát
không! Thậm chí "đi" hay "bay" tiếp tục như hiện nay, sẽ rất khó có một
nước Việt Nam công nghiệp hóa trong vòng ba bốn thập kỷ tới, hoặc không
bao giờ!
Không để bị ru ngủ mãi
Sau 25 năm công nghiệp hóa, nước ta có
một nền kinh tế còn nhiều đặc tính manh mún, bóc ngắn cắn dài, tranh
thủ được cái gì thì làm cái nấy, và nhìn chung là ngày càng có những
mất cân đối lớn, ngày càng đi sâu vào một cơ cấu kinh tế lạc hậu và ô
nhiễm môi trường nặng nề! Hơn nữa tính mất cân đối, tính lạc hậu này
và tình trạng ô nhiễm môi trường đã tới ranh giới chịu đựng cuối cùng.
Xin đơn cử một vài ví dụ:
o
Xuất khẩu than, dầu, gạo và nhiều sản phẩm khác đã tới đỉnh của khả
năng cho phép, không thể vượt qua được, thậm chí tiếp tục duy trì những
cái "đỉnh" này có thể dẫn tới thảm họa.
o Ô nhiễm môi trường và sử dụng
đất đai lãng phí đã tới mức nguy hiểm, trong khi dân số tiếp tục tăng,
ruộng đất ngày càng khan hiếm.
o Cơ cấu kinh tế lạc hậu và nhiều chính sách kinh tế - xã hội
hiện nay chẳng những có thể lọai bỏ cơ may mà "cơ cấu dân số vàng" của
chúng ta (tỷ lệ người trong tuổi lao động chiếm quá nửa hoặc gần gấp
đôi số người sống phụ thuộc) có thể đem lại cho đất nước. Thậm chí "cơ
cấu dân số vàng" này có thể biến thành mối đe dọa lớn vì nạn thất
nghiệp và sự xuống cấp của xã hội đang trở nên nghiêm trọng.
o Hiện nay vì những yếu kém về nhiều mặt trong thu hút FDI,
nước ta hàng năm phải tìm cách xuất khẩu một lượng lao động lớn, đang
trở thành địa điểm cho nước ngoài thuê để làm ra các sản phẩm tiêu hao
nhiều tài nguyên, năng lượng và gây ô nhiễm moi trường. Nói gắn gọn,
nước ta về nhiều mặt thực chất đang là nước đi làm thuê và là đất nước
cho thuê.
o Nhập siêu và thâm hụt ngân sách cứ tiếp tục như hiện này sẽ hứa hẹn những đổ vỡ lớn trong tầm tay.
o Càng nhiều đô thị hiện đại mọc lên do đầu tư nước ngoài,
nhưng sự phát triển những mặt khác nếu không phát triển đồng bộ (nhất
là luật pháp, năng lực hành chính, các chính sách kinh tế, các ngành
dịch vụ, nguồn nhân lực, các ngành cung ứng...) thì sẽ hoặc là thất bại
lớn, hoặc biến thành các dự án treo, thành đầu cơ đất đai và tạo ra
nhiều nguy cơ khác nữa.
Xin đừng để những lời khen vàng ngọc của nước ngoài về "tính năng
động", về "triển vọng tốt đẹp" của kinh tế Việt Nam, về "khả năng hấp
dẫn" của thị trường Việt Nam, "Việt Nam là nền kinh tế đang lên", về
vân vân... ru ngủ chúng ta.
Cứ cho những lời khen ấy là thực bụng, thì cũng đừng quên họ nhìn
Việt Nam về nhiều mặt đang là thị trường tốt nhất để đưa tới những thứ
họ đang muốn loại bỏ ở nước họ hoặc những thứ các nơi đang thừa ế và
muốn tống khứ. Các dự án đóng tàu, dự án thép và xi-măng khổng lồ là
những ví dụ tiêu biểu, chưa nói đến hàng trăm sân golf...
Càng phát triển, càng ách tắc
Tóm lại, tình hình phát triển kinh tế 25 năm qua cho thấy mô hình
phát triển kinh tế theo chiều rộng đã đi trọn vòng đời của nó. Điều này
thể hiện tập trung nhất ở chỉ số lạm phát và chỉ số ICOR của nền kinh
tế nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng cao và thuộc loại cao
nhất ở châu Á, đồng thời lạm phát vượt xa mức tăng trưởng.
Nói nôm na đấy là hiện tượng: Tiền của
công sức bỏ ra ngày càng nhiều, hiệu quả kinh tế thu được có tỷ lệ ngày
càng thấp. Kéo dài tình trạng này sẽ kiệt sức.
|
Tăng trưởng GDP
|
Tỷ lệ lạm phát
|
Chỉ số ICOR
|
2006
|
8,17%
|
7,7%
|
5,0
|
2007
|
8,48
|
12,6
|
5,2
|
2008
|
6,23
|
19,89 (22,97)*
|
6,9
|
2009**
|
5,2
|
9,4
|
|
Nguồn: Tổng cục Thống kê *IMF & EIU **Dự báo
Càng phát triển, nền kinh tế càng tích tụ nhiều ách tắc hay mất cân
đối mới. Những hiện tượng ách tắc này được đặt dưới cái tên gọi chung
là những thắt cổ chai. Đó là những mất cân đối ngày càng gay gắt:
- giữa khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng và
đòi hỏi phát triển của nền kinh tế; giữa sự phát triển yếu kém nguồn
nhân lực và đòi hỏi của phát triển kinh tế - xã hội;
- giữa
khả năng quản trị quốc gia và đòi hỏi phát triển của đất nước trong quá
trình công nghiệp hóa và hội nhập, tình trạng quan liêu và nạn tham
nhũng, khả năng yếu kém trong thực thi pháp luật...;
- đặc
biệt là tình trạng nhập siêu và tình trạng thâm hụt ngân sách nghiêm
trọng: Nhập siêu từ năm 2000 ngày càng lớn và được coi là ở mức báo
động. Kể từ năm 1995 đến 2005, nhập siêu của Việt Nam luôn ở mức dưới
5 tỷ USD và ước khoảng 10% GDP; song đã tăng vọt lên trên 12 tỷ USD
vào năm 2007 (gấp 2,4 lần so với năm 2006) và đến hết tháng 9/2008,
tổng mức nhập siêu đã lên tới con số 15,8 tỷ USD (ước khoảng trên 20%
GDP/năm)... Nếu phân tích các quốc gia ta nhập siêu, sẽ thấy bức
tranh trầm trọng hơn (chủ yếu từ Trung Quốc và các nước châu Á - là các
quốc gia có công nghệ thấp). Thâm hụt ngân sách từ năm 2000 trung bình
là 5-6% GDP/năm, riêng năm 2009 dự kiến là 8% GDP/năm.
- giữa
một bên là năng lực và chất lượng trong việc hoạch định chính sách,
chiến lược, quy hoạch phát triển.., và một bên là đòi hỏi phát triển
mọi mặt đất nước.
Hệ quả lớn nhất của tình trạng càng phát triển càng tích tụ ngày
càng nhiều ách tắc và mất cân đối lớn là hầu như cản trở mọi chiến lược
hay chủ trương phát triển có tính dài hạn.
Mới dừng ở công nghiệp hóa "gặp gì làm nấy"
Nội dung công nghiệp hóa trên thực tế đã tiến hành 25 năm qua chủ
yếu được xác định qua các chỉ số tăng trưởng đặt ra cho các kế hoạch 5
năm theo các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), thiếu
hẳn việc xác định nội dung cụ thể công nghiệp hóa về một số ngành và
sản phẩm kinh tế mà quá trình công nghiệp hóa phải từng bước giành được
cho các thị trường ngách hoặc thị trường mới. Nói một cách khác đấy là
cách hoạch định công cuộc công nghiệp hóa về mặt số lượng.
Việt Nam thiếu hẳn chiến lược, kế hoạch và các quy hoạch cụ thể phát
triển kết cấu hạ tầng đi song song hoặc đi trước một bước mở đường cho
sự tiến triển của công nghiệp hóa với nội dung khai thác thị trường
ngách và chiếm thị trường mới.
Chúng ta cũng thiếu hẳn chiến lược phát triển nguồn nhân lực mà sự
nghiệp công nghiệp hóa/ hiện đại hóa đất nước đòi hỏi, thậm chí có thể
nói hệ thống giáo dục và chính sách phát triển nguồn nhân lực hiện nay
là hoàn toàn bất cập, trực tiếp gia tăng sự tụt hậu của đất nước và để
lại nhiều hệ quả lâu dài.
Ta chỉ đề ra yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các chỉ số số
lượng cần đạt được cho tỷ trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ), song trong thực tế thiếu rất nhiều chính sách vĩ mô
hỗ trợ quá trình chuyển đổi này, những chính sách vĩ mô hiện có không
đáp ứng được đòi hỏi này. Các Đại hội đều phê phán là cơ cấu kinh tế
chuyển đổi rất chậm, nhưng đến nay chưa có kế sách gì đảo ngược tình
hình này.
Đặc biệt nghiêm trọng là các Đại hội Đảng đều thừa nhận cải cách
chính trị không đi kịp với đòi hỏi của phát triển kinh tế và xã hội, do
đó chẳng những không thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, không
phát huy được cái mạnh và những thuận lợi của đất nước. Thậm chí, nó
làm cho quá trình này chậm lại. Trong quá trình thực hiện, các kế hoạch
5 năm thường bị thiên lệch, biến tướng khá xa.
Nói ngắn gọn, cho đến nay mới chỉ có chủ trương hay mong muốn công
nghiệp hóa với cái đích phải đạt được vào năm 2020; nghĩa là thiếu hẳn
một chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ, xuyên xuốt
và có hiệu quả cho mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hóa.
Tất cả những điều vừa trình bày toát lên một sự thật: Nước ta sau 25
năm trên thực tế vẫn chưa có một chiến lược công nghiệp hóa đúng với
cái tên gọi của nó. Quá trình công nghiệp hóa cho đến nay diễn ra hầu
như dưới dạng một chuỗi các kế hoạch 5 năm cộng lại, và rất khó nói
rằng những kế hoạch 5 năm này được thiết kế theo một quan điểm chiến
lược công nghiệp hóa xuyên xuốt.
Thực tế đã diễn ra chủ yếu là: tranh thủ làm được gì làm nấy, gặp gì
làm nấy, không ít tình trạng chồng chéo, trùng lặp, giẫm đạp lên nhau -
tỉnh anh có xi măng lò đứng, tỉnh tôi cũng có; tỉnh anh có nhà máy mía
đường, tỉnh tôi không kém tỉnh anh; tỉnh anh có khu công nghiệp, tỉnh
tôi cũng không thua...
Quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua chủ yếu do sự lôi kéo, sức đẩy và
sự dẫn dắt tự thân của cuộc sống và tác động của đầu tư và dòng vốn từ
bên ngoài, nhiều hơn là do sự thúc đẩy theo một hướng chiến lược được
xác lập của hệ thống chính trị và do sự giác ngộ với tầm nhìn sắc bén
của những người lãnh đạo.
Cần nói ngay, phát triển như thế đang tạo ra nguy cơ lệ thuộc (chứ
không phải phụ thuộc lẫn nhau, cũng không phải "win-win") ngày càng
nguy hiểm
Đổi mới thể chế chưa theo kịp đổi mới kinh tế
Hơn nữa, nội dung công nghiệp hóa 25
năm qua chưa đặt ra vấn đề phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của
nước ta là con người Việt Nam.
Các Đại hội Đảng nhấn mạnh coi con
người là trung tâm, song lại hiểu vấn đề này chủ yếu theo những khía
cạnh phát triển giáo dục, văn hóa, xã hội. Trên thực tế triển khai,
chưa thể nói con người đã trở thành trung tâm của mọi chính sách phát
triển kinh tế xã hội. Càng chưa thể nói con người là đối tượng trung
tâm được phục vụ của mọi nỗ lực của hệ thống chính trị và bộ máy nhà
nước.
Xin nhấn mạnh: quan điểm coi con người là trung tâm như vậy và quan
điểm phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người
cho sự nghiệp công nghiệp hóa là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Có lẽ sự thiếu vắng một chiến lược công
nghiệp hóa dựa trên phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất này của đất
nước là một trong các tác nhân chính khiến cho quá trình và nội dung
công nghiệp hóa 25 năm qua nặng về chạy theo số lượng, chứ không phải
là chất lượng.
Sự thiếu vắng quan điểm chiến lược cực kỳ hệ trọng này đã xô đẩy quá
trình công nghiệp hóa chủ yếu chạy theo số lượng rất khó cưỡng lại; qua
đó công nghiệp hóa rơi vào tình trạng bước trước không chuẩn bị được
bao nhiêu cho bước tiếp theo, càng phát triển cơ cấu kinh tế càng khó
chuyển dịch. Tình trạng này đồng thời cũng tăng thêm sự hụt hẫng và trì
trệ trong đổi mới thể chế chính trị - xã hội theo yêu cầu phát huy thế
mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người.
"Lời nguyền tài nguyên"
Càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua có khuynh
hướng càng đi sâu vào kinh tế thượng nguồn: khai thác khoáng sản và các
tài nguyên thiên nhiên khác, phát triển sản phẩm thô, giá trị gia tăng
rất thấp, duy trì công nghệ lạc hậu, cái giá phải trả cho hủy hoại môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội rất cao...
Đặc biệt là trong các "nền kinh tế GDP tỉnh", hầu như tất cả các
tỉnh có khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên thì đều coi đấy là thế
mạnh của mình và ra sức khai thác bừa bãi; có nơi Thủ tướng đã phải ra
lệnh đình chỉ.
Phát triển kinh tế thượng nguồn là điều khó tránh khỏi ban đầu đối
với một nước nghèo và lạc hậu. Song sai lầm là ở chỗ muốn lấy phát
triển kinh tế thượng nguồn làm cú hích và nguồn tích tụ vốn cho công
nghiệp hóa, thậm chí coi kinh tế thượng nguồn là một nội dung quan
trọng của công nghiệp hóa, tại nhiều vùng trong nước đã và đang xảy ra
phát triển kinh tế thượng nguồn với bất kỳ giá nào.
Cũng phải nói rõ thêm, nhiều tỉnh bí quá không biết làm gì thì bóc
rừng và bóc khoáng sản để lãnh đạo tỉnh "thi đua" trong việc tạo thành
tích thay đổi tỷ trọng cơ cấu trong "nền kinh tế GDP tỉnh" của mình,
nhân dân tại chỗ chịu thêm nhiều thiệt hại và nhà nước hầu như không
được lợi gì song trên mặt nhiều báo cáo lại được coi đây là thành tích!
Hạch toán chung của phát triển kinh tế thượng nguồn theo kiểu như
vậy trong 25 năm qua là lợi bất cập hại, cái giá phải trả cho phát
triển quá đắt so với mức tiến bộ đạt được, tiếp tục ghìm giữ đất nước
trong vòng lạc hậu cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Chính điều này góp
phần giải thích tại sao 25 năm ban đầu của nước ta đi chậm hơn 25 năm
đầu của các NICs như Hàn Quốc và Đài Loan, thậm chí đang thúc đẩy đất
nước rẽ vào ngả đường trở thành một Philippines mới!
Trên thế giới người ta gọi hiện tượng này là căn bệnh Hà Lan hay là
"lời nguyền của tài nguyên", giải thích căn nguyên hàng chục năm qua
lấy xuất khẩu tài nguyên làm nguồn thu nhập quan trọng song hiện nay
vẫn ở trong vòng lạc hậu - đấy chính là căn bệnh kinh tế Hà Lan đã mắc
phải năm 1977, khi quá chú trọng xuất khẩu khí thiên nhiên và qua đó
làm trì trệ và suy sụp nhiều ngành kinh tế khác, Hà Lan buộc phải thay
đổi chiến lược phát triển của mình để tìm lối thoát.
Hãy thử xem xét một số vấn đề:
Các xí nghiệp xi-măng, luyện thép đã có, đang xây dựng, hoặc đã được
cấp phép xây dựng sẽ dẫn tới tình hình nước ta vào năm 2020 thừa khoảng
một chục triệu tấn xi măng/năm và khoảng 20 triệu tấn thép/năm trong
tình trạng đất nước ngày càng thiếu năng lượng gay gắt. Phải chăng mục
tiêu công nghiệp hóa của nước ta như vậy là để trở thành cường quốc
xi-măng và thép trong thế kỷ 21 này?
Nếu điều này xảy ra, chắc chắn là một thảm họa cho đất nước - trước
hết vì cảnh quan môi trường tự nhiên của đất nước sẽ bị "mặt trăng hóa"
nhiều vùng, kinh tế nước ta sẽ đổ vỡ, vì bị xi-măng và thép không có
khả năng cạnh tranh của chúng ta đè bẹp..
Vào năm 2015 trở đi, nước ta sẽ thiếu năng lượng trầm trọng và phải
nhập khẩu, trong khi đó xuất khẩu than và dầu của nước ta xuốt 25 năm
qua hầu như bỏ qua tương lai của đất nước! Phát triển thủy điện đã vượt
qua cái ngưỡng cho phép.
Trong khi đó nhà nước lại thiếu hẳn việc nghiêm khắc rà xoát, đánh
giá lại chính sách năng lượng quốc gia hiện nay, thiếu hẳn những nỗ lực
xử lý nghiêm khắc và khắc phục tình trạng lãng phí và thất thoát năng
lượng quá lớn đang diễn ra hàng chục năm nay.
Nếu đánh giá nghiêm túc chi phí/lợi ích (cost/benefit), bao gồm cả
những việc như chi phí cho khắc phục những tác động ngoại vi của việc
khai thác than, hoàn trả môi trưởng tự nhiên nơi khai thác, sự thất
thoát hàng chục triệu tấn than lậu/năm, sự tàn phá môi trường tự nhiên
trong vùng, đánh giá cái được và cái mất so với đòi hỏi của chiến lược
năng lượng quốc gia, vân... vân... khó có thể coi việc khai thác mỗi
năm khối lượng càng lớn than ở Quảng Ninh là môt thành tựu kinh tế.
Đúng hơn nên coi đó là một thất bại kinh tế lớn và một sai lầm về
chiến lược năng lượng - không phải do chủ trương khai thác than, mà do
năng lực quản lý và hiệu quả kinh tế yếu kém; đặc biệt quan trọng là do
thiếu hẳn một chiến lược năng lượng quốc gia được xác định với những
luận chứng vững chắc làm cơ sở cho việc khai thác. Thậm chí còn có thể
coi việc khai thác than Quảng Ninh trong khi đất nước ngày càng khan
hiếm năng lượng là một trong các ví dụ rõ nét nhất của tình trạng "bóc
ngắn cắn dài", các thế hệ tương lai phải trả giá! Trong cả nước còn có
nhiều công trình khai thác titan, khai thác đồng, khai thác các khoáng
sản khác để xuất khẩu nguyên liệu với hệ quả xấu tương tự
Rừng phòng hộ và rừng tự nhiên ngày càng bị trọc hóa và chỉ còn lại
rất ít; đặc biệt là rừng đầu nguồn đã rất ít mà còn đang tiếp tục bị
xâm phạm nghiêm trọng. Lũ lụt ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn và khó
khắc phục hơn. Đất đai bị xói mòn và sa mạc hóa cùng với tình trạng
chất lượng thổ nhưỡng ngày càng xuống cấp đang gia tăng với tốc độ rất
đáng lo ngại.
Xin hãy đến tận nơi các khu khai thác này, dù là titan ở dọc bờ biển
miền Trung, dù là những cánh rừng nham nhở do khai thác quặng sắt ở
Lào Cai để xuất khẩu sang Trung Quốc, các vùng khai thác vàng bừa bãi ở
Bắc Kạn, Quảng Nam, Bình Thuận... - mà chủ yếu là khai thác lậu, những
dòng sông chết, những con sông bị đổi dòng và đôi bờ sụt lở do bán
cát, những cánh đồng hoang do các dự án treo... để nhìn tận mắt thực
trạng này.
Xin hãy đối chiếu thực tế nêu trên với quan điểm ghi trong nghị
quyết Đại hội X: "Căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước tập trung
đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của
nền kinh tế như lọc hóa dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón,
hóa chất, xi-măng, khai thác bô-xít và sản xuất alumin, bột giấy gắn
với trồng rừng và một số sản phẩm cơ khí chế tạo" (Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc khóa X, trang 197-198).
Học từ sai lầm của những nước đi trước
Việt Nam là nước đi sau, có rất nhiều cái bất lợi và cái lợi phải xử
lý thỏa đáng - điều này có nghĩa phải tìm ra con đường riêng của mình
để không phải lặp lại những sai lầm của các nước đi trước, tránh các
nguy cơ trở thành "bãi thải công nghiệp" của các nước khác, đồng thời
tìm ra cho mình con đường thuận lợi hơn.
Thị trường thường chật cứng đối với nước đi sau - vì vậy phải khai
thác lợi thế nước đi sau trong việc chiếm lĩnh các thị trường ngách
(các "niches"), mà muốn thế phải có các chính sách kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa và chính sách đối ngoại cho phép liên kết, chiếm lĩnh
những khâu nào đó của các chuỗi cung - ứng trên thị trường thế giới để
có khả năng khai thác tốt nhất các thị trường ngách. Công nghiệp hóa vì
vậy cần có trọng tâm là chú trọng, tranh thủ khai thác các thị trường
ngách, đồng thời tìm đường chiếm lĩnh thị trường mới;.
Hiển nhiên 25 năm qua những đòi hỏi này không được đặt ra hoặc không
được đặt ra một cách đúng tầm để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa của
nước ta.