Cập nhật lúc 07:17, Thứ Hai, 02/11/2009 (GMT+7)
-
Từ Cần Thơ, nhà báo Sáu Nghệ gửi về VietNamNet những cảm nhận và phân
tích của ông về mô hình Nông trường Sông Hậu. Loạt bài có tựa đề: “Gánh
nặng mô hình”, chúng tôi sẽ trích đăng lần lượt.
Bài 1: Trọn đời ôm cục đất sống với nông dân
Những bàn chân đang bước trên mảnh đất Nông trường Sông Hậu vốn là bãi hoang sình lầy. Ảnh: CTV.
|
Con đường mới nâng cấp lập tức có nhiều quán nhậu,
mọi khu đô thị sầm uất vốn vậy, nên có người gọi “đoạn đường ăn nhậu”
như một lời tả chân vừa như một lời bình luận, rủ rê.
Theo cảm nhận của tôi, đó là nơi thích hợp với dân
nhậu cóc ổi bởi ồn ào và bụi bặm. Hiển nhiên, nó không xứng với tầng
lớp có tiền, với một số người sang trọng.
Hai tô bún, cách nhau hơn 10 năm
Vừa rẽ từ đại lộ Hòa Bình thì nhác thấy bên lề đường
Đinh Tiên Hoàng có chiếc xe con của Nông trường Sông Hậu. Đoạn ấy có
căn nhà là trạm giao dịch của Nông trường. Lướt theo lề đường, tôi thấy
chị Ba Sương (Trần Ngọc Sương, Giám đốc Nông trường Sông Hậu) đang ngồi
ở một quán bún riêu vỉa hè.
Cải tạo vùng đất hoang hóa, sình lầy thuở ban đầu ở Nông trường Sông Hậu. Ảnh: CTV. |
Mười mấy năm trước, tôi đã có lần bắt gặp chị Ba
Sương ngồi ăn bún một mình. Đó là năm 1992, thời điểm Nông trường bị
một số người xông vào đòi đất. Tình hình căng thẳng đến mức một số cán
bộ cấp trên muốn làm việc với Nông trường đã dừng lại nơi xa và nhắn
chị ra để gặp. Thậm chí một vài nhà báo cũng ngồi ở trung tâm thành phố
Cần Thơ rồi nhắn cán bộ của Nông trường đến để hỏi chuyện.
Đó là thời kỳ Nông trường phải vay ngân hàng 16 tỷ đồng (năm 1993) để bồi hòan cho dân nhằm ổn định đất đai và khi lãi mẹ đẻ lãi con thành món nợ hơn 60 tỷ đồng thì Nông trường mới được nhà nước trả cho vốn gốc.
Giữa lúc căng thẳng, một buổi xế trưa, tôi lách qua hàng người tụ tập ồn ào bên ngoài để đi vào Nông trường bộ. Vào đến nhà ăn rộng thênh và im ắng, thấy chị Ba Sương đang bưng một tô bún lúi húi chan nước mắm ngồi ăn một mình ở góc. Tô bún không, chan với nước mắm hình như cũng không có gia vị gì cả. Chị nói: “Từ sáng đến giờ mới ăn được miếng em ạ”.
Lúc đó đã gần một giờ chiều.
Nên buổi tối gặp chị Ba Sương ăn tô bún bên vỉa hè đường Đinh Tiền Hoàng, tôi không nhìn kỹ nhưng thấy hình như tô bún riêu có thêm đĩa rau sống, không phải chan nước mắm không gia vị như buổi trưa hôm nào. Xung quanh vẫn rất ồn ào. Hồi nào ồn ào dân tụ tập đòi đất, bây giờ ồn ào dân nhậu, đủ các thành phần với biết bao nỗi niềm buồn vui, mong ước riêng tư…
Giữa hai thời điểm cách nhau hơn chục năm ấy, một buổi xế trưa và một buổi chập tối, chị Ba Sương ngồi trước tô bún vẫn dáng tất bật và vẫn một mình. Tôi chợt tự hỏi: Chị đang mong ước điều gì?
Năm 1989, lần đầu tiên tôi gặp chị, tôi hỏi chị và chị trả lời, một câu bộc bạch: “Tôi sẽ trọn đời ôm cục đất sống với nông dân”. Lúc đó, chị mới ngoài tuổi bốn mươi. Tôi nghe chị nói nhưng không muốn tin lời chị. Lời bộc bạch ấy, tôi viết vào một bài báo và chị nhận được nhiều thư ở nhiều nơi trên đất nước gửi tới.
Chị giấu hết, nhưng qua một số nguồn tin, tôi biết được. Còn biết rằng, hầu như chị không trả lời bức thư nào. Có dịp gặp chị, tôi bóng gió xa xôi là nên hồi âm với những bức thư gửi đến nhưng chị kiên quyết im lặng.
Đó là thời kỳ Nông trường phải vay ngân hàng 16 tỷ đồng (năm 1993) để bồi hòan cho dân nhằm ổn định đất đai và khi lãi mẹ đẻ lãi con thành món nợ hơn 60 tỷ đồng thì Nông trường mới được nhà nước trả cho vốn gốc.
Giữa lúc căng thẳng, một buổi xế trưa, tôi lách qua hàng người tụ tập ồn ào bên ngoài để đi vào Nông trường bộ. Vào đến nhà ăn rộng thênh và im ắng, thấy chị Ba Sương đang bưng một tô bún lúi húi chan nước mắm ngồi ăn một mình ở góc. Tô bún không, chan với nước mắm hình như cũng không có gia vị gì cả. Chị nói: “Từ sáng đến giờ mới ăn được miếng em ạ”.
Lúc đó đã gần một giờ chiều.
Nên buổi tối gặp chị Ba Sương ăn tô bún bên vỉa hè đường Đinh Tiền Hoàng, tôi không nhìn kỹ nhưng thấy hình như tô bún riêu có thêm đĩa rau sống, không phải chan nước mắm không gia vị như buổi trưa hôm nào. Xung quanh vẫn rất ồn ào. Hồi nào ồn ào dân tụ tập đòi đất, bây giờ ồn ào dân nhậu, đủ các thành phần với biết bao nỗi niềm buồn vui, mong ước riêng tư…
Giữa hai thời điểm cách nhau hơn chục năm ấy, một buổi xế trưa và một buổi chập tối, chị Ba Sương ngồi trước tô bún vẫn dáng tất bật và vẫn một mình. Tôi chợt tự hỏi: Chị đang mong ước điều gì?
Năm 1989, lần đầu tiên tôi gặp chị, tôi hỏi chị và chị trả lời, một câu bộc bạch: “Tôi sẽ trọn đời ôm cục đất sống với nông dân”. Lúc đó, chị mới ngoài tuổi bốn mươi. Tôi nghe chị nói nhưng không muốn tin lời chị. Lời bộc bạch ấy, tôi viết vào một bài báo và chị nhận được nhiều thư ở nhiều nơi trên đất nước gửi tới.
Chị giấu hết, nhưng qua một số nguồn tin, tôi biết được. Còn biết rằng, hầu như chị không trả lời bức thư nào. Có dịp gặp chị, tôi bóng gió xa xôi là nên hồi âm với những bức thư gửi đến nhưng chị kiên quyết im lặng.
"Chị qua tuổi đó mất rồi"
Thực ra, tôi cũng ít có dịp gặp chị. Bởi chị di chuyển không ngừng. Hết Nam lại Bắc, rồi ra nước ngoài. Xuất nông sản ra các thị trường ngoài khối Đông Âu và Liên Xô (cũ) có lẽ chị là một trong những người tiên phong. Sang châu Phi tìm đường xuất khẩu gạo thì chắc chị cũng là người đầu tiên.
Thấy cà pháo muối đóng hộp bán ở nước ta dán nhãn Đài Loan, chị bảo: “Muối cà pháo thì người Việt làm mới vừa khẩu vị người Việt”. Thế là Nông trường Sông Hậu có sản phẩm cà pháo muối. Cây hành của Nông trường Sông Hậu cũng có đến gần chục sản phẩm để xuất khẩu, từ lá đến củ, từ sấy đến muối.
Thực ra, tôi cũng ít có dịp gặp chị. Bởi chị di chuyển không ngừng. Hết Nam lại Bắc, rồi ra nước ngoài. Xuất nông sản ra các thị trường ngoài khối Đông Âu và Liên Xô (cũ) có lẽ chị là một trong những người tiên phong. Sang châu Phi tìm đường xuất khẩu gạo thì chắc chị cũng là người đầu tiên.
Thấy cà pháo muối đóng hộp bán ở nước ta dán nhãn Đài Loan, chị bảo: “Muối cà pháo thì người Việt làm mới vừa khẩu vị người Việt”. Thế là Nông trường Sông Hậu có sản phẩm cà pháo muối. Cây hành của Nông trường Sông Hậu cũng có đến gần chục sản phẩm để xuất khẩu, từ lá đến củ, từ sấy đến muối.
Một góc nông trường Sông Hậu hôm nay (trong ảnh là Nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu). Ảnh: CTV.
|
Nếu danh hiệu Anh hùng Lao động lần thứ nhất năm 1985 tặng cho Nông trường Sông Hậu là sự đánh giá công lao biến một vùng đất từ hoang hóa thành làng quê trù phú, thì danh hiệu Anh hùng Lao động lần thứ hai tặng cho Nông trường Sông Hậu năm 1999 là sự đánh giá thành tích đưa nông dân hội nhập kinh tế thế giới.
Doanh nghiệp nông nghiệp nào ở nước ta tiên phong đăng ký nhãn hiệu độc quyền ở trong và ngoài nước: Nông trường Sông Hậu với SOHAFARM. Doanh nghiệp nông nghiệp nào ở nước ta có sản phẩm xuất khẩu đa dạng bậc nhất: Nông trường Sông Hậu. Rất khó kể hết, từ các loại gạo, rau, củ, quả đến thủy sản, gà Nagoya Nhật Bản và cả hàng gia dụng trong nhà lẫn ngòai trời bằng gỗ bạch đàn.
Doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất nhiều nông sản
lại có nhiều nhà máy chế biến xuất khẩu bậc nhất cũng là Nông trường
Sông Hậu. Doanh nghiệp nông nghiệp có sản phẩm quen thuộc với nhiều thị
trường trên thế giới bậc nhất chắc chắn vẫn là Nông trường Sông Hậu.
Giữa nhiều cái nhất như thế, một ngày cuối năm 2002, tôi gặp chị Ba Sương lúc chị vừa đi nước ngoài về. Chị hào hứng kể, đã có thêm bạn hàng cho một số nông sản chế biến của Nông trường. Tôi chia sẻ niềm vui với chị, nhân lúc chị đang phấn khởi liền mạnh dạn nhắc đến những lá thư của những người tôi hoàn toàn không quen biết.
Chị im lặng! Ánh mắt đang vui vẻ, họat bát chợt trầm lắng và nhìn xuống. Rồi chị trả lời tôi, giọng nói nhỏ nhưng rõ ràng: “Thôi em ạ. Người ta đến với chị là mong có đứa con mà chị không đáp ứng được nữa. Chị qua tuổi đó mất rồi”.
Giữa nhiều cái nhất như thế, một ngày cuối năm 2002, tôi gặp chị Ba Sương lúc chị vừa đi nước ngoài về. Chị hào hứng kể, đã có thêm bạn hàng cho một số nông sản chế biến của Nông trường. Tôi chia sẻ niềm vui với chị, nhân lúc chị đang phấn khởi liền mạnh dạn nhắc đến những lá thư của những người tôi hoàn toàn không quen biết.
Chị im lặng! Ánh mắt đang vui vẻ, họat bát chợt trầm lắng và nhìn xuống. Rồi chị trả lời tôi, giọng nói nhỏ nhưng rõ ràng: “Thôi em ạ. Người ta đến với chị là mong có đứa con mà chị không đáp ứng được nữa. Chị qua tuổi đó mất rồi”.
Tôi giật thót người. Đến lượt tôi ngồi lặng im. Đầu óc của tôi nhói lên một ý nghĩ: "Thời gian đời người nhanh quá!".
Tổng Bí thư Đỗ Mười trong một lần về thăm Nông
trường Sông Hậu. Người phụ nữ mặc áo dài tím bên phải Tổng bí thư là bà
Trần Ngọc Sương. Bên trái Tổng bí thư có một người đàn ông cao gầy,
chính là "Anh hùng chân đất" Trần Ngọc Hoằng (Năm Hoằng), người khai
phá, dựng lên Nông trường Sông Hậu. Ảnh: CTV.
|
Gặp chị là nghe chị nói về đất đai trồng cây nọ,
nuôi con kia, chế biến ra làm sao, xuất bán cho nước nào. Hết thứ nọ
đến thứ kia mà tôi tâm sự với đồng nghiệp là lâu lâu mới đến Nông
trường Sông Hậu là bỡ ngỡ.
Chỉ một mảnh đất phía trước Nông trường bộ mà rau
trái thay đổi xoành xoạch. Chị khoe trồng thí nghiệm trước khi đưa ra
cho nông dân trồng đại trà. Dịp kỷ niệm 50 năm Quốc khánh nước nhà,
Nông trường tổ chức một gian hàng tại khu triển lãm Giảng Võ.
Gặp chị, chị hớn hở khoe: Các vị lãnh đạo thăm triển
lãm đều ghé gian hàng của Nông trường, bà con Hà Nội mua rất đông, đang
phải gọi điện về để đưa thêm hàng ra. Mới dứt lời, chị đã tất bật đi.
Tôi gọi chị định hỏi thêm vài câu, chị xua tay nguây nguẩy: "Sát giờ
lên máy bay rồi".
(Còn tiếp)
-
Sáu Nghệ (tác giả là nhà báo hiện đang ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả).
No comments:
Post a Comment